AsianLII [Home] [Databases] [WorldLII] [Search] [Feedback] [Help]

The Supreme People's Court of Vietnam: Benchbook Online

You are here:  AsianLII >> Databases >> The Supreme People's Court of Vietnam: Benchbook Online >> 6.2.2. Xác định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự

[Table] [Database Search] [Name Search] [Previous Part] [Previous Section] [Next Section] [Next Part] [English] [Help]


 
6.2.2. Xác định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự


Văn bản quy phạm pháp luật
  • BLHS (Điều 48)
  • Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04-8-2000 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần chung của BLHS năm 1999 (các mục 7 và 8)
  • Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP ngày 12 – 5- 2006 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS (các mục 2 và mục 5)

  • Công việc chính và kỹ năng thực hiện :

    6.2.2.1.    Phạm tội có tổ chức (điểm a khoản 1 Điều 48 BLHS)

    • Là trường hợp có từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm và đòi hỏi phải có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm.
    • Khi đã xác định được trường hợp cụ thể đó là phạm tội có tổ chức, thì phải áp dụng tình tiết tăng nặng này đối với tất cả những người cùng thực hiện tội phạm (người tổ chức, người thực hành, người xúi giục, người giúp sức).
    • Mức độ tăng nặng phụ thuộc vào quy mô tổ chức, vai trò của từng người trong việc tham gia vụ án.

    6.2.2.2.    Phạm tội có tính chất chuyên nghiệp (điểm b khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Là cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xoá án, đồng thời người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.
    • Khi áp dụng tình tiết tăng nặng này cần nghiên cứu kỹ hướng tại mục 5 Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP.

    6.2.2.3.    Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội.

    • Người có chức vụ là người do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng lương hoặc không hưởng lương, được giao thực hiện một công vụ nhất định và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ.
    • Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội là người có chức vụ đã lợi dụng vị trí công tác, lợi dụng quyền hạn trong khi thực hiện công vụ để phạm tội.

    6.2.2.4.    Phạm tội có tính chất côn đồ (điểm d khoản 1 Điều 48 BLHS)

    • Côn đồ là kẻ chuyên gây sự, hành hung. Phạm tội có tính chất côn đồ là phạm tội hoàn toàn từ nguyên cớ do mình gây ra.

    6.2.2.5.    Phạm tội vì động cơ đê hèn (điểm đ khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Phạm tội vì động cơ đê hèn là phạm tội với động cơ đê tiện, thấp hèn, ích kỷ, thể hiện sự bội bạc, phản trắc, hèn nhát.

    6.2.2.6.    Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng (điểm e khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Cố tình thực hiện tội phạm đến cùng là quyết tâm thực hiện bằng được ý định phạm tội và hành vi phạm tội, mặc dù có sự can ngăn của người khác hoặc có những trở ngại khác trong quá trình thực hiện tội phạm.
    • Cũng áp dụng tình tiết tăng nặng này, nếu mục đích của người phạm tội không đạt, nhưng chứng minh được người phạm tội đang tìm mọi cách để thực hiện được tội phạm, đạt được mục đích phạm tội của mình.
    • Trường hợp người phạm tội có sự lưỡng lự, không dứt khoát thực hiện tội phạm thì không áp dụng tình tiết này.
       Ví dụ: A có ý định trộm cắp chiếc xe máy của B và đã hai lần A đến nhà B. Tuy có điều kiện trộm cắp, nhưng lần đầu A lưỡng lự sợ bị bắt, lần sau A suy nghĩ nếu lấy trộm xe của B thì B sẽ gặp khó khăn. Đến lần thứ ba thì A lấy trộm xe của B và đem bán. Trong trường hợp này không coi là cố tình thực hiện tội phạm đến cùng.

    6.2.2.7.    Phạm tội nhiều lần, tái phạm, tái phạm nguy hiểm (điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Phạm tội nhiều lần là có từ hai lần trở lên phạm cùng một loại tội, trong đó mỗi lần đều đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự và chưa hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, nay các lần phạm tội đó được xét xử trong cùng một bản án.
      Cần chú ý phân biệt phạm tội nhiều lần với phạm nhiều tội.
    • Tái phạm là những trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 49 BLHS. Khi áp dụng tình tiết tái phạm cần nghiên cứu hướng dẫn tại mục 7 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP.
    • Tái phạm nguy hiểm là những trường hợp được quy định tại khoản 2 Điều 49 BLHS. Khi áp dụng tình tiết tái phạm nguy hiểm cần nghiên cứu hướng dẫn tại mục 8 Nghị quyết số 01/2000/NQ- HĐTP.

    6.2.2.8.    Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác (điểm h khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác” đối với những trường hợp phạm tội do lỗi cố ý, không phụ thuộc vào ý thức chủ quan của bị cáo có nhận biết được hay không nhận biết được.
    • “Trẻ em” được xác định là người dưới 16 tuổi theo quy định tại Điều 1 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (tiểu mục 2.2 mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP).
    • “Phụ nữ có thai” được xác định bằng các chứng cứ chứng minh là người phụ nữ đó đang mang thai, như: bị cáo và mọi người đều nhìn thấy được hoặc bị cáo nghe được, biết được từ các nguồn thông tin khác nhau về người phụ nữ đó đang mang thai. Trong trường hợp thực tế khó nhận biết được người phụ nữ đó đang có thai hay không hoặc giữa lời khai của bị cáo và người bị hại về việc này có mâu thuẫn với nhau thì để xác định người phụ nữ đó có thai hay không phải căn cứ vào kết luận của cơ quan chuyên môn y tế hoặc kết luận giám định (tiểu mục 2.3. mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP).
    • “Người già” được xác định là người từ 70 tuổi trở lên (tiểu mục 2.4 mục 2 Nghị quyết số 01/2006/NQ- HĐTP).
    • “Người ở trong tình trạng không tự vệ được” là người trong tình trạng không có hoặc bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; bị bệnh tật; đang ngủ say, đang ở trong tình thế không chống đỡ được, không tự vệ được...
    • “Người lệ thuộc về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác” là người có mối quan hệ với người phạm tội, nhưng bị lệ thuộc vào người phạm tội về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác.

    6.2.2.9.    Xâm phạm tài sản của Nhà nước (điểm i khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • “Tài sản Nhà nước” được hiểu là tài sản thuộc hình thức sở hữu Nhà nước quy định tại Điều 200 Bộ luật dân sự năm 2005 và được điều chỉnh theo các quy định tại mục 1 Chương XIII Bộ luật dân sự năm 2005.
    • “Xâm phạm tài sản của Nhà nước” là bằng việc thực hiện hành vi phạm tội, người phạm tội chiếm đoạt, làm thất thoát, hư hỏng, huỷ hoại tài sản của Nhà nước.

    6.2.2.10.    Phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng (điểm k khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Hậu quả phải do hành vi phạm tội gây ra. Hậu quả có thể là thiệt hại về vật chất và có thể là thiệt hại phi vật chất.
    • Tuỳ từng hậu quả do từng loại tội phạm gây ra mà xác định trường hợp nào gây hậu quả nghiêm trọng, trường hợp nào gây hậu quả rất nghiêm trọng và trường hợp nào gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

    6.2.2.11.    Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội (điểm l khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Người phạm tội phải có sự lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội để phạm tội mà không đòi hỏi lúc phạm tội đang có chiến tranh, đang trong tình trạng khẩn cấp, đang có thiên tai, dịch bệnh hoặc đang có những khó khăn đặc biệt khác.
    • Cần chú ý là nếu phạm tội trong hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp, thiên tai, dịch bệnh hoặc những khó khăn đặc biệt khác của xã hội mà người phạm tội không lợi dụng những sự kiện này để phạm tội thì không áp dụng tình tiết tăng nặng này.

    6.2.2.12.    Dùng thủ đoạn xảo quyệt, tàn ác phạm tội hoặc dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người (điểm m khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Dùng thủ đoạn xảo quyệt phạm tội là trường hợp khi phạm tội, người phạm tội có những mánh khoé, cách thức gian dối, thâm hiểm làm cho người bị hại hoặc những người khác khó lường thấy trước được để đề phòng.
    • Dùng thủ đoạn tàn ác phạm tội là trường hợp khi phạm tội người người phạm tội đã dùng những thủ đoạn thâm độc, tàn nhẫn...
    • Dùng thủ đoạn, phương tiện có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là trường hợp khi phạm tội người phạm tội dùng thủ đoạn, phương tiện không chỉ nhằm xâm hại một người nào đó mà thủ đoạn phương tiện đó còn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người khác.

    6.2.2.13.     Xúi giục người chưa thành niên phạm tội (điểm n khoản 1 Điều 48 BLHS)

    • Xúi giục người chưa thành niên phạm tội là xui khiến, kích động, dụ dỗ, thúc đẩy người chưa đủ 18 tuổi thực hiện tội phạm.

    6.2.2.14.    Có hành động xảo quyệt, hung hãn nhằm trốn tránh, che giấu tội phạm (điểm o khoản 1 Điều 48 BLHS).

    • Hành động xảo quyệt, hung hãn là hành động thâm hiểm, khó mà lường thấy trước được hoặc là hành động dữ tợn, phá phách, đánh giết người nhằm trốn tránh, tẩu thoát hoặc để che giấu tội phạm.

    6.2.2.15.    Cần chú ý : Những tình tiết đã là yếu tố định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng.