AsianLII [Home] [Databases] [WorldLII] [Search] [Feedback] [Help]

The Supreme People's Court of Vietnam: Benchbook Online

You are here:  AsianLII >> Databases >> The Supreme People's Court of Vietnam: Benchbook Online >> 3.1.2. Kháng nghị giám đốc thẩm

[Table] [Database Search] [Name Search] [Previous Part] [Previous Section] [Next Section] [Next Part] [English] [Help]


 
3.1.2. Kháng nghị giám đốc thẩm


Văn bản quy phạm pháp luật
  • BLTTDS (Điều 283 )
  • BLTTDS (Điều 290)
  • Công văn số 218/2005/KHXX ngày 29-9-2005 của Tòa án nhân dân tối cao

  • Công việc chính và kỹ năng thực hiện:

    • Người có quyền kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 285 BLTTDS)
      - Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chỉ bị hạn chế không được kháng nghị đối với quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao;
      - Chánh án Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh chỉ có quyền kháng nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án nhân dân cấp huyện thuộc địa hạt tỉnh ấy.
    • Thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 288 BLTTDS)
      - Thời hạn kháng nghị là 3 năm, kể từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có hiệu lực pháp luật;
      - Đối với bản án, quyết định dân sự có hiệu lực trước ngày BLTTDS có hiệu lực (01-01-2005) thì áp dụng quy định về thời hạn kháng nghị giám đốc thẩm theo quy định của các văn bản pháp luật tố tụng trước khi có BLTTDS có hiệu lực; cụ thể là:
      + Đối với bản án, quyết định dân sự và hôn nhân và gia đình thì thời hạn kháng nghị là ba năm, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; việc kháng nghị theo hướng không gây thiệt hại cho bất cứ đương sự nào thì không bị hạn chế về thời gian;
      + Đối với bản án, quyết định kinh doanh, thương mại, bản án, quyết định kinh tế thì thời hạn kháng nghị chỉ là chín tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật;
      + Đối với bản án, quyết định lao động thì thời hạn kháng nghị chỉ là sáu tháng, kể từ ngày bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật; việc kháng nghị có lợi cho người lao động thì thời hạn đó là một năm.
    • Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 283 BLTTDS)
      - Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật có thể bị kháng nghị khi có một trong các căn cứ quy định tại Điều 283 BLTTDS;
      - Cần chú ý là có loại đối tượng kháng nghị giám đốc thẩm bị hạn chế về căn cứ kháng nghị như quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự quy định chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu có căn cứ cho rằng sự thỏa thuận đó là do bị nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hoặc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội (khoản 2 Điều 188 BLTTDS) nhưng nếu có vi phạm nghiêm trọng khác (như vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng) vẫn có thể bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm (tham khảo Công văn số 218/2005/KHXX ngày 29-9-2005 của Tòa án nhân dân tối cao);
      - Cũng cần chú ý là quy định về nghĩa vụ chứng minh và thu thập chứng cứ trong BLTTDS đã có đổi mới căn bản so với quy định của pháp luật tố tụng trước đó nên quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm hiện nay không còn căn cứ  "Việc điều tra không đầy đủ" như trước đây.
    • Phát hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm:
      - Việc phát hiện những vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật không phải chỉ là quyền của các đương sự trong vụ án đó, mà cá nhân, cơ quan, tổ chức khác cũng có quyền phát hiện và thông báo bằng văn bản cho người có quyền kháng nghị (khoản 1 Điều 284 BLTTDS);
      - Đối với Tòa án và Viện kiểm sát thì việc thông báo bằng văn bản cho những người có quyền kháng nghị khi phát hiện vi phạm pháp luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật còn là nghĩa vụ (khoản 2 Điều 284 BLTTDS);
      - Theo tinh thần quy định tại Điều 5 BLTTDS về quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, Điều 296 về phạm vi giám đốc thẩm thì tuy nhiều người có quyền phát hiện vi phạm nhưng sẽ chỉ có kháng nghị nếu có khiếu nại, yêu cầu của đương sự trừ trường hợp đương sự không có khả năng thực hiện việc khiếu nại hoặc có xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích của người thứ ba không phải là đương sự  trong vụ án;
      - Đơn vị chức năng giúp việc cho người có quyền kháng nghị có thể có cả Thẩm phán (giúp cho Chánh án) nhưng không nên để Thẩm phán đã tham gia vào việc kháng nghị lại tham gia Hội đồng xét xử giám đốc thẩm để đảm bảo việc xét xử khách quan, chính xác.
    • Phạm vi của kháng nghị quyết định phạm vi xét xử giám đốc thẩm ; do đó, kháng nghị không chỉ nêu ra một hay một số vi phạm, sai lầm mà phải là tất cả những vi phạm, sai lầm của bản án, quyết định bị kháng nghị; người đã kháng nghị giám đốc thẩm có quyền thay đổi, bổ sung quyết định kháng nghị trong thời hạn kháng nghị; rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị trước hoặc tại phiên tòa giám đốc thẩm.