THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ Số: 29/2007/CT-TTg | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 11 tháng 12 năm 2007 | ||||||
CHỈ THỊ Về việc thực hiện cải cách hành chính trong công tác quản lý xuất cảnh, nhập
cảnh của cán bộ, công chức, công dân _______________________ Nghị định số 136/2007/NĐ-CP ngày 17 tháng 08 năm 2007 của Chính phủ về xuất cảnh, nhập cảnh
của công dân Việt Nam có nhiều quy định mới về tổ chức công tác quản lý
xuất nhập cảnh của công dân Việt Nam, đặc biệt là quy định thủ tục cấp hộ chiếu đơn
giản tạo thuận lợi tối đa cho nhân dân và cán bộ, công chức, viên chức, đồng
thời tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp giữa các cơ quan, các ngành liên
quan. Để việc triển khai thực hiện Nghị định số 136/2007/NĐ-CP có hiệu quả, Thủ tướng Chính phủ
yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân các
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện tốt các công việc sau: 1. Các cơ quan, các ngành từ trung ương đến địa phương không được tự đặt ra các
loại giấy tờ phải nộp khi công dân đề nghị cấp, sửa đổi hộ chiếu ngoài quy định của
Nghị định số 136/2007/NĐ-CP và Thông tư hướng dẫn. Cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, sĩ quan, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân
viên trong các đơn vị Quân đội nhân dân và Công an nhân dân (dưới
đây viết chung là cán bộ, công chức, viên chức) nộp hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu
phổ thông như mọi công dân, không phải nộp thêm giấy tờ khác. Giữ gìn và sử dụng hộ chiếu phổ thông đúng pháp luật là quyền và
trách nhiệm của cá nhân được cấp hộ chiếu. Các cơ quan, đơn vị không thu giữ
hộ chiếu phổ thông của cán bộ, công chức, viên chức, kể cả khi ở trong nước cũng
như khi ở nước ngoài. Hộ chiếu phổ thông của công dân chỉ bị thu giữ trong trường hợp người mang hộ chiếu vi
phạm pháp luật Việt Nam, bị cơ quan có thẩm quyền quyết định thu giữ. 2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm quản
lý cán bộ, công chức, viên chức thuộc thẩm quyền theo quy định hiện hành. Nếu
thấy cần thiết có thể ban hành quy định nội bộ về việc sử dụng hộ chiếu phổ thông
của cán bộ, công chức, viên chức thuộc quyền quản lý của mình để đi nước
ngoài, nhằm bảo vệ bí mật nhà nước, bảo vệ nội bộ... 3. Bộ Công an cùng các cơ quan, các ngành có liên quan cần phối hợp chặt
chẽ trong công tác xuất cảnh, nhập cảnh, công tác đảm bảo an ninh trật tự, trong đó
lưu ý thực hiện các việc sau: a) Chủ trì, phối hợp với các Bộ: Ngoại giao, Quốc phòng, Giao thông vận tải khẩn trương
nối mạng để truyền dữ liệu theo quy định tại Điều 36 của Nghị định số 136/2007/NĐ-CP, hoàn
thành trước ngày 31 tháng 3 năm 2008. Báo cáo Thủ tướng Chính phủ kết quả
thực hiện. b) Trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt đề án tổ chức đầu mối thống nhất quản
lý cơ sở dữ liệu công dân, nối mạng toàn quốc theo cấp ngành dọc của Bộ Công
an trong việc cấp chứng minh nhân dân, cấp chứng nhận đăng ký hộ khẩu, cấp hộ chiếu, đáp
ứng yêu cầu của công tác quản lý xuất nhập cảnh, quản lý an ninh chính trị,
trật tự xã hội. Hoàn thành trong quý III năm 2008. c) Chủ trì, phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trình Thủ tướng Chính
phủ Đề án hộ chiếu điện tử vào quý III năm 2008. d) Phối hợp với các cơ quan liên quan thông báo rộng rãi trên các phương
tiện thông tin về các điểm mới trong việc cấp hộ chiếu, trong đó lưu ý nêu rõ
các quy định về việc gửi hồ sơ qua đường bưu điện và việc ủy thác cho tổ chức có
tư cách pháp nhân nộp hồ sơ và nhận kết quả cấp hộ chiếu, đảm bảo thuận lợi
cho công dân nhưng không để xảy ra việc thất lạc, tráo đổi hồ sơ trước khi tới cơ
quan cấp hộ chiếu. Tăng cường các biện pháp nghiệp vụ để phát hiên, xử lý
các đối tượng, đường dây tổ chức xuất nhập cảnh trái phép. 4. Bộ Ngoại giao chỉ đạo Cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài trong việc cấp hộ chiếu phổ
thông ở nước ngoài cho công dân Việt Nam phải đảm bảo: - Thủ tục đơn giản, thuận lợi cho công dân; - Cấp hộ chiếu phải đúng đối tượng, không để xảy ra việc cấp hộ chiếu cho người không
có quốc tịch Việt Nam hoặc cấp cho công dân đang ở trong nước. - Giải quyết đề nghị cấp hộ chiếu cho công dân trên cơ sở tờ tự khai, các giấy tờ
chứng minh có quốc tịch Việt Nam và theo đúng quy định tại Điều 23 Nghị định số 136/2007/NĐ-CP.
Chỉ yêu cầu xác minh những trường hợp có cơ sở nghi vấn về vấn đề nhân thân,
quốc tịch. 5. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cần đàm phán với cơ quan có trách
nhiệm nước ngoài để người lao động Việt Nam ở nước ngoài được giữ hộ chiếu của cá
nhân, không để chủ lao động nước ngoài quản lý hộ chiếu của người lao động Việt
Nam như ở một số nước hiện nay. 6. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần lưu ý chỉ đạo
việc công an phường, xã xác nhận hồ sơ đề nghị cấp hộ chiếu cho công dân, đảm
bảo nhanh chóng, chính xác, không gây khó, chậm trễ cho dân, không được
lợi dụng để sách nhiễu, tiêu cực và tuyệt đối không để xảy ra tình trạng
xác nhận hồ sơ giả. 7. Bộ Tài chính đảm bảo cung cấp kinh phí cho việc thực hiện Đề án về công nghệ
thông tin trong việc cấp chứng minh nhân dân, cấp chứng nhận đăng ký hộ khẩu, hộ chiếu
điện tử, trang bị phương tiện, kết nối đường truyền. 8. Cơ quan tiếp nhận hồ sơ, cấp hộ chiếu cần bố trí đủ cán bộ chuyên trách, có
trình độ, năng lực. Trình tự, thủ tục, quy trình cấp hộ chiếu cần được thực hiện
theo đúng Chỉ thị số 32/2006/CT-TTg ngày 07 tháng 9 năm 2006 của Thủ tướng Chính phủ
về một số biện pháp cần làm ngay để chấn chỉnh kỷ luật, kỷ cương hành chính
trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp. Chỉ thị này có hiệu lực thi hành kể từ ngày ký. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành
Chỉ thị này./. | |||||||
|