CHỈ THỊ CỦA CHÁNH ÁN TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Về công tác thi hành án hình sự
Thực hiện Nghị quyết số 50/2005/QH11 ngày 191/11/2005 của Quốc hội về chương trình hoạt động giám sát
của Quốc hội năm 2006, Ủy ban pháp luật của Quốc hội đã tiến hành giám sát hoạt động ban hành văn
bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án hình sự và việc chấp hành pháp luật trong công tác thi
hành án hình sự của ngành Tòa án nhân dân và đã có Báo cáo giám sát số 1910/UBPL11 ngày 27/9/2006 gửi Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Ngày 28/9/2006, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến đánh giá về công
tác thi hành án hình sự của ngành Tòa án. Theo Báo cáo giám sát và ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc
hội thì về cơ bản Tòa án các cấp đã thi hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về thi hành án
hình sự. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng một số Tòa án chậm hoặc chưa ra quyết định thi hành án đối
với người bị kết án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc chưa chủ động trong
việc theo dõi các trường hợp người bị kết án được tạm hoãn, tạm đình chỉ chấp hành hình phạt
tù để ra quyết định thi hành án... Những tồn tại đó đã ít nhiều có ảnh hưởng không tốt đến hiệu
lực, hiệu quả của công tác thi hành án hình sự.
Để khắc phục những tồn tại nêu trên, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thi hành án hình sự,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao yêu cầu Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Chánh
án Tòa án nhân dân địa phương và Tòa án quân sự các cấp trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình
thực hiện ngay các công việc sau đây:
1. Chỉ đạo, quán triệt các Thẩm phán trong đơn vị mình sau khi kết thúc việc xét xử các vụ án hình sự
phải khẩn trương hoàn thiện bản án, quyết định để tiến hành giao bản án. Đối với các trường hợp
xét xử sơ thẩm, việc giao bản án hình sự sơ thẩm phải được thực hiện theo đúng quy định tại Điều
229 của Bộ luật Tố tụng hình sự và hướng dẫn tại tiểu mục 5 mục IV Nghị quyết số 04/2004/NQ-HĐTP
ngày 05/11/2004 "Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Xét xử sơ thẩm" của Bộ luật
Tổ tụng hình sự năm 2003" để trên cơ sở đó có căn cứ xác định ngày có hiệu lực của bản án, quyết
định sơ thẩm và ra quyết định thi hành án hoặc ủy thác thi hành án theo quy định tại Điều 255 và Điều
256 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Đối với các trường hợp xét xử phúc thẩm thì trong thời hạn quy
định tại Điều 254 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bản án, quyết định phúc thẩm phải được gửi
cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm để ra quyết định thi hành án hoặc quyết định ủy thác thi hành án theo
quy định tại Điều 256 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
2. Chỉ đạo tiến hành ngay việc rà soát, thống kê các trường hợp cụ thể những người bị kết án mà
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng tòa án chưa ra quyết định thi hành án để ra ngay
quyết định thi hành án đối với họ. Cần lưu ý là đối với trường hợp trong một vụ án hình sự có
nhiều bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm kết án mà trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị chỉ có một hoặc
một số bị cáo có kháng cáo hoặc bị kháng cáo, kháng nghị thì phần của bán án hình sự sơ thẩm đối
với những bị cáo không kháng cáo và không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật được thi
hành. Tòa án cần căn cứ vào các quy định tại Điều 240 và điểm a khoản 1 Điều 255 của Bộ luật Tố tụng hình sự để ra quyết định thi hành án đối với những người bị kết án đó.
3. Chỉ đạo tiến hành ngay việc rà soát, thống kê cụ thế các trường hợp người bị kết án phạt tù được
hoãn hoặc được tạm đình chỉ chấp hành hình phạt nhưng đã hết thời hạn được hoãn hoặc được
tạm đình chỉ. Đối với trường hợp người bị kết án có đủ các điều kiện quy định tại Điều
61 và Điều 62 của Bộ luật Hình sự và xét thấy cần tiếp tục cho họ được hoãn hoặc được tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù thì Tòa án phải ra quyết định tiếp về việc hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp
hành hình phạt đối với người bị kết án. Đối với trường hợp người bị kết án không có các điều
kiện để được xem xét cho tiếp tục hoãn hoặc tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù thì Tòa án phải
ra quyết định thi hành án đối với họ theo đúng quy định tại Điều 261 và Điều 262 của Bộ luật Tố
tụng hình sự.
4. Phối hợp chặt chẽ với cơ quan công an cùng cấp tiến hành rà soát các trường hợp người bị kết án
phạt tù đang tại ngoại, đã có quyết định thi hành án nhưng đã bỏ trốn để yêu cầu cơ quan công an
ra lệnh (quyết định) truy nã bắt họ đi chấp hành hình phạt tù. Đối với những trường hợp bị cáo
bỏ trốn trước khi xét xử: cơ quan công an đã ra lệnh (quyết định) truy nã nhưng không có kết quả và
Tòa án đã xét xử vắng mặt bị cáo theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự thì khi bán án
có hiệu lực pháp luật, Tòa án phải ra quyết định thi hành án đồng thời yêu cầu cơ quan công an tiếp
tục thực hiện lệnh (quyết định) truy nã đối với họ và thông báo kết quả cho Tòa án biết để theo
dõi việc thi hành án.
5. Tiến hành tổng kết, tìm ra nguyên nhân của những hạn chế, sai sót trong công tác thi hành án hình sự ở
đơn vị mình để kịp thời rút kinh nghiệm và có biện pháp xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm pháp
luật về thi hành án hình sự. Nếu có vấn đề gì vướng mắc trong công tác thi hành án hình sự thì kịp
thời báo cáo cho Tòa án nhân dân tối cao để Tòa án nhân dân tối cao xem xét và có những hướng dẫn bổ
sung kịp thời.
Thủ trưởng các đơn vị thuộc Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự các
cấp trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm quán triệt nội dung Chỉ thị
này đến toàn thể Thấm phán, cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý; đồng thời chỉ đạo và tổ chức
thực hiện Chỉ thị này và báo kết quả cho Tòa án nhân dân tối cao./.