PHÁP LỆNH
Tín ngưỡng, tôn giáo
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung
theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Căn cứ vào Nghị quyết số 21/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 của Quốc hội khoá XI, kỳ họp thứ 4 về
Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2004;
Pháp lệnh này quy định về hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo,
CHƯƠNG I
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1
Công dân có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào.
Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân. Không ai được xâm phạm quyền tự
do ấy.
Các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật.
Công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hoặc không có tín ngưỡng, tôn giáo cũng như công dân có tín ngưỡng, tôn
giáo khác nhau phải tôn trọng lẫn nhau.
Điều 2
Chức sắc, nhà tu hành và công dân có tín ngưỡng, tôn giáo được hưởng mọi quyền công dân và có trách
nhiệm thực hiện nghĩa vụ công dân.
Chức sắc, nhà tu hành có trách nhiệm thường xuyên giáo dục cho tín đồ lòng yêu nước, thực hiện quyền,
nghĩa vụ công dân và ý thức chấp hành pháp luật.
Điều 3
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dưới đây được hiểu như sau:
1. Hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thể hiện sự tôn thờ tổ tiên; tưởng niệm và tôn vinh những
người có công với nước, với cộng đồng; thờ cúng thần, thánh, biểu tượng có tính truyền thống và
các hoạt động tín ngưỡng dân gian khác tiêu biểu cho những giá trị tốt đẹp về lịch sử, văn hóa,
đạo đức xã hội.
2. Cơ sở tín ngưỡng là nơi thực hiện hoạt động tín ngưỡng của cộng đồng, bao gồm đình, đền, miếu,
am, từ đường, nhà thờ họ và những cơ sở tương tự khác.
3. Tổ chức tôn giáo là tập hợp những người cùng tin theo một hệ thống giáo lý, giáo luật, lễ nghi và
tổ chức theo một cơ cấu nhất định được Nhà nước công nhận.
4. Tổ chức tôn giáo cơ sở là đơn vị cơ sở của tổ chức tôn giáo bao gồm ban hộ tự hoặc ban quản
trị chùa của đạo Phật, giáo xứ của đạo Công giáo, chi hội của đạo Tin lành, họ đạo của đạo
Cao đài, ban trị sự xã, phường, thị trấn của Phật giáo Hoà hảo và đơn vị cơ sở của tổ chức tôn
giáo khác.
5. Hoạt động tôn giáo là việc truyền bá, thực hành giáo lý, giáo luật, lễ nghi, quản lý tổ chức của
tôn giáo.
6. Hội đoàn tôn giáo là hình thức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra nhằm phục vụ hoạt động
tôn giáo.
7. Cơ sở tôn giáo là nơi thờ tự, tu hành, nơi đào tạo người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của
tổ chức tôn giáo và những cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước công nhận.
8. Tín đồ là người tin theo một tôn giáo và được tổ chức tôn giáo thừa nhận.
9. Nhà tu hành là tín đồ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo giáo lý, giáo luật của
tôn giáo mà mình tin theo.
10. Chức sắc là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn giáo.
Điều 4
Chùa, nhà thờ, thánh đường, thánh thất, đình, đền, miếu, trụ sở tổ chức tôn giáo, các cơ sở đào
tạo của tổ chức tôn giáo, những cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo hợp pháp khác, kinh bổn sáchvà các đồ
dùng thờ cúng được pháp luật bảo hộ.
Điều 5
Nhà nước bảo đảm quyền hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo theo quy định của pháp luật; tôn
trọng, phát huy giá trị văn hoá, đạo đức tôn giáo; giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của
truyền thống thờ cúng tổ tiên, tưởng niệm và tôn vinh những người có công với nước, với cộng đồng
nhằm góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đáp ứng nhu cầu tâm linh và đời sống tinh
thần của nhân dân.
Điều 6
Quan hệ giữa Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với các quốc gia, tổ chức quốc tế về vấn
đề có liên quan đến tôn giáo phải dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, các bên cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi bên, pháp
luật và thông lệ quốc tế.
Điều 7
1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách
nhiệm:
a) Tập hợp đồng bào có tín ngưỡng, tôn giáo và đồng bào không có tín ngưỡng, tôn giáo xây dựng khối
đại đoàn kết dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc;
b) Phản ảnh kịp thời ý kiến, nguyện vọng, kiến nghị của nhân dân về các vấn đề có liên quan đến
tín ngưỡng, tôn giáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
c) Tham gia tuyên truyền, vận động chức sắc, nhà tu hành, tín đồ, người có tín ngưỡng, các tổ chức
tôn giáo và nhân dân thực hiện pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo;
d) Tham gia xây dựng và giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo.
2. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Nhà nước chủ động phối hợp với Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận trong việc tuyên truyền, vận động và
thực hiện các chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tôn giáo,
Điều 8
1. Không được phân biệt đối xử vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo; vi phạm quyền tự do tín ngưỡng, tôn
giáo của công dân.
2. Không được lợi dụng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo để phá hoại hoà bình, độc lập, thống nhất
đất nước; kích động bạo lực hoặc tuyên truyền chiến tranh, tuyên truyền trái với pháp luật, chính
sách của Nhà nước; chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, chia rẽ tôn giáo; gây rối trật tự công cộng,
xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác, cản trở việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động mê tín dị đoan và thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật
khác.
CHƯƠNG II
HOẠT ĐỘNG TÍN NGƯỠNG CỦA NGƯỜI CÓ TÍN NGƯỠNG VÀ HOẠT ĐỘNG TÔN GIÁO CỦA TÍN ĐỒ, NHÀ TU HÀNH, CHỨC
SẮC
Điều 9
1. Người có tín ngưỡng, tín đồ được tự do bày tỏ đức tin, thực hành các nghi thức thờ cúng, cầu
nguyện và tham gia các hình thức sinh hoạt, phục vụ lễ hội, lễ nghi tôn giáo và học tập giáo lý tôn
giáo mà mình tin theo.
2. Trong hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo, người có tín ngưỡng, tín đồ có trách nhiệm tôn trọng quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của người khác; thực hiện quyền
tự do tín ngưỡng, tôn giáo không cản trở việc thực hiện quyền và nghĩa vụ công dân; hoạt động tín
ngưỡng, tôn giáo theo đúng quy định của pháp luật.
Điều 10
Người tham gia hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải tôn trọng quy định của cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo,
của lễ hội và hương ước, quy ước của cộng đồng.
Điều 11
1. Chức sắc là người có chức vụ quản lý hoặc phẩm sắc, tước hiệu trong tôn giáo. Nhà tu hành là người
tin theo và thực hiện nếp sống riêng trong giáo lý, giáo luật của một tôn giáo.
21. Chức sắc, nhà tu hành được thực hiện lễ nghi tôn giáo trong phạm vi phụ trách, được giảng đạo,
truyền đạo tại các cơ sở tôn giáo.
32. Trường hợp thực hiện lễ nghi tôn giáo, giảng đạo, truyền đạo ngoài quy định tại khoản 12 Điều
này phải có sự chấp thuận của sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo Uỷ ban nhân
dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp huyện) nơi thực
hiện.
Điều 12
1. Người phụ trách tổ chức tôn giáo cơ sở có trách nhiệm đăng ký chương trình hoạt động tôn giáo hàng
năm diễn ra tại cơ sở đó với Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân
dân cấp xã); trường hợp tổ chức hoạt động tôn giáo ngoài chương trình đã đăng ký thì phải đượcxin
phép cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận.
2. Thẩm quyền chấp thuận việc tổ chức lễ hội tín ngưỡng do Chính phủ quy định.
Điều 13
1. Người đang chấp hành án phạt tù hoặc đang bị quản chế theo quy định của pháp luật thì không được
chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo, quản lý tổ chức của tôn giáo và chủ trì lễ hội
tín ngưỡng.
2. Đối với người đã chấp hành xong các hình phạt hoặc biện pháp xử lý hành chính quy định tại khoản
1 Điều này, nêu trên chỉ sau khi được tổ chức tôn giáo đăng ký hoạt động và được sự chấp thuận
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mới được chủ trì lễ nghi tôn giáo, truyền đạo, giảng đạo và
quản lý tổ chức của tôn giáo.
Điều 14
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo phải bảo đảm an toàn, tiết kiệm, phù hợp với truyền thống, bản sắc
văn hóa dân tộc, giữ gìn, bảo vệ môi trường.
Điều 15
Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo bị đình chỉ nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
1. Xâm phạm an ninh quốc gia, ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự công cộng hoặc môi trường;
2. Tác động xấu đến đoàn kết nhân dân, đến truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc;
3. Xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, nhân phẩm, danh dự, tài sản của người khác;
4. Có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng khác.
CHƯƠNG III
TỔ CHỨC TÔN GIÁO VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO
Điều 16
1. Tổ chức được công nhận là tổ chức tôn giáo khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần
phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;
b) Có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc
và không trái với quy định của pháp luật;
c) Có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;
d) Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp;
đ) Có tên gọi không trùng với tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
công nhận.;
2. Thẩm quyền công nhận tổ chức tôn giáo:
a) Thủ tướng Chính phủ công nhận tổ chức tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương;
b) Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương công nhận tổ chức tôn giáo có phạm
vi hoạt động chủ yếu ở một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
3. Việc đăng ký hoạt động tôn giáo quy định tại điểm ce khoản 1 Điều này; hoạt động tôn giáo của
tổ chức đã đăng ký và trình tự, thủ tục công nhận tổ chức tôn giáo do Chính phủ quy định.
Điều 17
1. Tổ chức tôn giáo được thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các tổ chức trực thuộc theo hiến
chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo.
2. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo cơ sở phải được sự chấp thuận
của Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh).
3. Việc thành lập, chia, tách, sáp nhập, hợp nhất tổ chức tôn giáo không thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều này phải được sự chấp thuận của Thủ tướng Chính phủ.
cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương.
Điều 18
1. Việc tổ chức hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo cơ sở được tiến hành sau khi có sự chấp
thuận của Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi diễn ra hội nghị, đại hội.
2. Việc tổ chức hội nghị, đại hội cấp trung ương hoặc toàn đạo của tổ chức tôn giáo được tiến
hành sau khi có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương.
3. Việc tổ chức hội nghị, đại hội của tổ chức tôn giáo không thuộc các trường hợp quy định tại
khoản 1 và khoản 2 Điều này được tiến hành sau khi có sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
nơi diễn ra hội nghị, đại hội.
Điều 19
1. Hội đoàn tôn giáo là hình thức tổ chức tập hợp tín đồ do tổ chức tôn giáo lập ra nhằm phục vụ
hoạt động tôn giáo.
2 1. Hội đoàn tôn giáo phảiđược hoạt động sau khi tổ chức tôn giáo đăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyềnquy định tại khoản 3 Điều này mới được hoạt động. .
32. Việc đăng ký hội đoàn tôn giáo được quy định như sau:
a) Hội đoàn tôn giáo có phạm vi hoạt động trong một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh đăng
ký với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi hội đoàn hoạt động;
b) Hội đoàn tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố trong một tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi hội đoàn hoạt động;
c) Hội đoàn tôn giáo có phạm vi hoạt động ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đăng ký với
cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương.
Điều 20
Dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo phải được hoạt động sau khi đã đăng
ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền. mới được hoạt động.
Việc đăng ký hoạt động của dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo được
áp dụng như đối với hội đoàn tôn giáo quy định tại khoản 2 3Điều 1915 của Pháp lệnh này.
Điều 21
1. Người đi tu tại các cơ sở tôn giáo phải trên cơ sở tự nguyện, không ai được ép buộc hoặc cản
trở. Người chưa thành niên khi đi tu phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý.
2. Người phụ trách cơ sở tôn giáo khi nhận người vào tu có trách nhiệm đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp
xã nơi có cơ sở tôn giáo.
Điều 22
1. Việc phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử hoặc cách chức, bãi nhiệm các chức sắc trong
tôn giáo được thực hiện theo hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và đảm bảo điều kiện
quy định tại khoản 2 Điều này đó; trường hợpphong chức, phong phẩm, bổ nhiệm có yếu tố nước ngoài
thì còn phải có sự thỏa thuận trước với cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương.
2.Tổ chức tôn giáo phải đảm bảo Người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử, suy cử phải
đáp ứng các điều kiện sau đây mới được Nhà nước thừa nhận:
a) Là công dân Việt Nam, có tư cách đạo đức tốt;
b) Có tinh thần đoàn kết, hoà hợp dân tộc;
c) Nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước.
3. Việc cách chức, bãi nhiệm chức sắc trong tôn giáo được thực hiện theo hiéiến chương, điều lệ của
tổ chức tôn giáo.
4. Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm đăng ký về người được phong chức, phong phẩm, bổ nhiệm, bầu cử,
suy cử; thông báo về việc cách chức, bãi nhiệm chức sắc trong tôn giáo phải đăng ký với cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền.
Tổ chức tôn giáo có trách nhiệm thông báo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc cách chức, bãi
nhiệm người giữ chức vụ trong tôn giáo.
Điều 23
Khi thuyên chuyển nơi hoạt động tôn giáo của ,chức sắc, nhà tu hành, tổ chức tôn giáo có trách nhiệmphải
thông báo với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đi và đăng ký với Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi đến.
Trường hợp chức sắc, nhà tu hành vi phạm pháp luật về tôn giáo đã bị Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh xử lý vi phạm hành chính hoặc đã bị xử lý về hình sự thì khi thuyên chuyển nơi hoạt động tôn
giáo còn phải được sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi đến theo quy định của Chính phủ.
Điều 24
1. Tổ chức tôn giáo được thành lập trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động
tôn giáo.
2. Việc thành lập trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo phải được sự chấp thuận
của Thủ tướng Chính phủ.
Việc chiêu sinh của trường đào tạo tôn giáo phải thực hiện theo nguyên tắc công khai, tự nguyện của
thí sinh và điều lệ hoạt động của trường đã được phê duyệt.
Môn học về lịch sử Việt Nam, dân tộc, văn hoá dân tộc, pháp luật Việt Nam là các môn học chính khoá
trong chương trình đào tạo tại trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo.
3. Việc mở các lớp bồi dưỡng những người chuyên hoạt động tôn giáo phải được sự chấp thuận của
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi mở lớp.
4. Trình tự, thủ tục thành lập, giải thể trường đào tạo, mở lớp bồi dưỡng tôn giáo do Chính phủ
quy định.
Điều 25
Các cuộc lễ của tổ chức tôn giáo diễn ra ngoài cơ sở tôn giáo được thực hiện theo quy định sau đây:
1. Cuộc lễ có sự tham gia của tín đồ trong phạm vi một huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phải
được sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp huyện nơi diễn ra cuộc lễ chấp thuận;
2. Cuộc lễ có sự tham gia của tín đồ đến từ nhiều huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trong
phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc từ nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
phải được sự chấp thuận củaUỷ ban nhân dân cấp tỉnh nơi diễn ra cuộc lễ chấp thuận.
CHƯƠNG IV
TÀI SẢN THUỘC CƠ SỞ TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO VÀ
HOẠT ĐỘNG XÃ HỘI CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO, TÍN ĐỒ,
NHÀ TU HÀNH, CHỨC SẮC
Điều 26
Tài sản hợp pháp thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm việc xâm phạm
tài sản đó.
Điều 27
1. Đất có các công trình do cơ sở tôn giáo sử dụng gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, thánh thất, thánh đường,
tu viện, trường đào tạo những người chuyên hoạt động tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các
cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động được sử dụng ổn định lâu dài.
2. Đất có các công trình là đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được sử dụng ổn định
lâu dài.
3. Việc quản lý và sử dụng đất quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được thực hiện theo quy
định của pháp luật về đất đai.
Điều 28
1. Cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo được tổ chức quyên góp, nhận tài sản hiến, tặng, cho trên cơ
sở tự nguyện của tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân ngoài nước theo quy định của pháp
luật.
2. Việc tổ chức quyên góp của cơ sở tín ngưỡng, tổ chức tôn giáo phải công khai, rõ ràng mục đích
sử dụng và trước khi quyên góp phải thông báo với Uỷ ban nhân dân nơi tổ chức quyên góp.
3. Không được lợi dụng việc quyên góp để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc thực hiện những mục đích
trái pháp luật.
Điều 29
2Hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo tại cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là di tích lịch sử - văn hoá, danh lam
thắng cảnh được bảo đảm bình thường như các cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo khác.
Việc quản lý, sử dụng, cải tạo, nâng cấp công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo là di tích lịch
sử - văn hoá, danh lam thắng cảnh thực hiện theo quy định của pháp luật về di sản văn hóa và pháp luật
có liên quan.
Điều 30
Việc cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng, tôn giáo phải thực hiện
theo quy định của pháp luật về xây dựng.
Khi thay đổi mục đích sử dụng của các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng phải có sự chấp thuận của
Uỷ ban nhân dân cấp huyện; khi thay đổi mục đích sử dụng của các công trình thuộc cơ sở tôn giáo phải
đượccó sự chấp thuận của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Điều 31
Việc di dời các công trình thuộc cơ sở tín ngưỡng,tín ngưỡng, tôn giáo do yêu cầu của quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội phải được trao đổi trước với người đại diện của cơ sở tín ngưỡng, tổ
chức tôn giáo và thực hiện đền bù theo quy định của pháp luật.
Điều 32
Việc xuất bản, in, phát hành các loại kinh, sách, báo, tạp chí và các xuất bản phẩm khác về tín ngưỡng,
tôn giáo; kinh doanh, xuất khẩu, nhập khẩu văn hoá phẩm về tín ngưỡng, tôn giáo; sản xuất đồ dùng phục
vụ hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo được thực hiện theo quy định của pháp luật. về xuất bản và
các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Điều 33
1. Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện để tổ chức tôn giáo hỗ trợ phát triển các hình thức mở
trường, lớp nhà trẻ, mẫu giáo, tham gia nuôi dạy trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; hỗ trợ cơ sở chăm
sóc sức khoẻ người nghèo, người tàn tật, người nhiễm HIV/AIDS, bệnh nhân phong, tâm thần; hỗ trợ phát
triển các cơ sở giáo dục mầm non và tham gia các hoạt động khác vì mục đích từ thiện nhân đạo phù
hợp với hiến chương, điều lệ của tổ chức tôn giáo và quy định của pháp luật.
2. Chức sắc, nhà tu hành, tín đồ tôn giáo với tư cách công dân được Nhà nước khuyến khích tổ chức
hoạt động giáo dục, y tế, từ thiện nhân đạo theo quy định của pháp luật.
CHƯƠNG V
QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA TỔ CHỨC TÔN GIÁO, TÍN ĐỒ,
NHÀ TU HÀNH, CHỨC SẮC
Điều 34
Tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc có quyền thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế
theo quy định của hiến chương, điều lệ hoặc giáo luật của tổ chức tôn giáo phù hợp với pháp luật
Việt Nam.
Khi thực hiện các hoạt động quan hệ quốc tế, tổ chức tôn giáo, tín đồ, nhà tu hành, chức sắc phải
bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng độc lập, chủ quyền và công việc nội bộ của các quốc gia
với nhau.
Điều 35
Khi tiến hành các hoạt động quan hệ quốc tế sau đây phải có sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà
nước về tôn giáo ở trung ương:
1. Mời tổ chức, người nước ngoài vào Việt Nam hoặc triển khai chủ trương của tổ chức tôn giáo nước
ngoài ở Việt Nam;
2. Tham gia hoạt động tôn giáo, cử người tham gia khóa đào tạo về tôn giáo ở nước ngoài.
Điều 36.
Chức sắc, nhà tu hành là người nước ngoài được giảng đạo tại cơ sở tôn giáo của Việt Nam sau khi
được sự chấp thuận của cơ quan quản lý nhà nước về tôn giáo ở trung ương chấp thuận, phải tôn
trọng quy định của tổ chức tôn giáo của Việt Nam và tuân thủ quy định của pháp luật Việt Nam.
Điều 37
Người nước ngoài khi vào Việt Nam phải tuân thủ pháp luật Việt Nam; được mang theo xuất bản phẩm tôn
giáo và các đồ dùng tôn giáo khác để phục vụ nhu cầu của bản thân theo quy định của pháp luật Việt
Nam; được tạo điều kiện sinh hoạt tôn giáo tại cơ sở tôn giáo như tín đồ tôn giáo Việt Nam; được
mời chức sắc tôn giáo là người Việt Nam để tiếnthực hiện các lễ nghithức tôn giáo cho mình; tôn trọng
quy định của tổ chức tôn giáo ở Việt Nam.
CHƯƠNG VI
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 38.
Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập có
quy định khác với quy định của Pháp lệnh này thì thực hiện theo quy định của điều ước quốc tế
đó.
Điều 39
1. Tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận trước ngày Pháp lệnh này có
hiệu lực thì không phải làm thủ tục công nhận lại.
2. Hội đoàn tôn giáo, dòng tu, tu viện và các tổ chức tu hành tập thể khác của tôn giáo đã đăng ký và
được phép hoạt động trước ngày Pháp lệnh này có hiệu lực thì không phải làm thủ tục đăng ký lại.
Điều 40
Pháp lệnh này có hiệu lực từ ngày 15 tháng 11 năm 2004.
Điều 41
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Pháp lệnh này./.