NGHỊ ĐỊNH
Sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc áp dụng
biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng
______________________________
CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;
Căn cứ Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 đã được sửa đổi, bổ sung
theo Pháp lệnh số 04/2008/UBTVQH12 ngày 02 tháng 4 năm 2008;
Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Công an,
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 quy định
và hướng dẫn cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
1. Điều 22 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 22. Điều chuyển trại viên
Để phù hợp với quy mô quản lý trại viên của các cơ sở giáo dục hoặc do
yêu cầu nghiệp vụ, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự
và hỗ trợ tư pháp ra quyết định điều chuyển trại viên từ cơ sở giáo dục này
sang cơ sở giáo dục khác theo quy định của Bộ Công an.”
2. Khoản 3 Điều 25 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư
pháp quyết định việc giảm thời hạn, tạm đình chỉ hoặc miễn chấp hành theo quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều này trên cơ sở đề nghị của Giám đốc cơ sở giáo
dục. Quyết định này phải được gửi đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã
ra quyết định đưa người đó vào cơ sở giáo dục và Ủy ban nhân dân cấp
xã nơi họ cư trú.”
3. Khoản 1 Điều 26 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“1. Khi người bị đưa vào cơ sở giáo dục đã chấp hành xong thời hạn đưa vào
cơ sở giáo dục thì Giám đốc cơ sở giáo dục cấp Giấy chứng nhận cho người đó
và gửi bản sao Giấy chứng nhận đến Tổng cục Cảnh sát thi hành án hình sự
và hỗ trợ tư pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh nơi đã ra quyết định
và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.
Trong trường hợp người đó đã chấp hành xong quyết định mà vẫn chưa thực sự tiến
bộ thì Giám đốc cơ sở giáo dục phải có bản nhận xét riêng và kiến
nghị các biện pháp quản lý, giáo dục tiếp theo gửi cơ quan Công an cấp huyện
và Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người đó cư trú.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ khi về địa phương, người đã chấp hành xong thời hạn
đưa vào cơ sở giáo dục phải đến trình diện Công an xã, phường, thị trấn nơi
họ về cư trú.”
Điều 2. Sửa đổi, bổ sung Nghị định số 125/2008/NĐ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định số 76/2003/NĐ-CP ngày 27 tháng 6 năm 2003 quy định và hướng dẫn
cụ thể việc áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.
1. Khoản 12 Điều 1 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“Điều 28. Chế độ ăn mặc
1. Mỗi năm, mỗi trại viên được cấp 02 bộ quần áo dài, 02 bộ quần áo lót, 02
khăn mặt, 01 đôi dép, 02 bàn chải đánh răng, 02 chiếc chiếu cá nhân, 01 áo
mưa, 01 chiếc mũ che mưa, nắng; mỗi quý được cấp 01 hộp kem đánh răng 150 gam, 0,6 kg xà
phòng; 02 năm được cấp 01 chăn sợi, 01 màn; đối với trại viên ở các cơ sở giáo
dục từ Thừa Thiên Huế trở ra được cấp thêm 01 áo ấm và 01 chăn bông nhưng không
quá 02 kg dùng trong 02 năm.
Trại viên là phụ nữ được cấp tiền vệ sinh cá nhân mỗi tháng tương đương với
02 kg gạo tẻ thường tính theo giá thị trường của từng địa phương.
2. Định mức ăn hàng tháng của trại viên được quy định như sau: gạo tẻ thường 17 kg,
thịt hoặc cá 1,5 kg, đường loại bình thường 0,5 kg, muối 01 kg, bột ngọt 100 gam, nước mắm
01 lít, rau xanh 15 kg, chất đốt 15 kg củi hoặc tương đương. Ngày lễ, ngày Tết dương lịch
được ăn thêm không quá 03 lần tiêu chuẩn ngày thường; các ngày Tết Nguyên
đán được ăn thêm không quá 05 lần tiêu chuẩn ngày thường. Đối với những
người lao động nặng hoặc trong môi trường độc hại có thể tăng thêm 15% so với tiêu
chuẩn, định lượng trên. Các tiêu chuẩn ăn được tính theo giá thị trường của
từng địa phương.
3. Chế độ ăn, nghỉ của trại viên bị bệnh do Giám đốc cơ sở giáo dục quyết định theo
chỉ định của cơ sở y tế.”
2. Điểm 2 khoản 14 Điều 1 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Căn cứ vào điều kiện cụ thể cơ sở giáo dục, Giám đốc cơ sở giáo dục
tổ chức khám sức khỏe định kỳ và có biện pháp phòng bệnh cho trại viên.
Tiền thuốc, khám, chữa bệnh thường xuyên hàng tháng cho mỗi trại viên được cấp
tương đương với 02 kg gạo tẻ thường theo giá thị trường của từng địa phương.
Trường hợp trại viên bị bệnh, thì căn cứ vào chỉ định của cán bộ y tế, Giám
đốc cơ sở giáo dục xét cho họ tạm nghỉ lao động, học tập hoặc giảm định mức, giảm
giờ lao động trong thời gian bị bệnh; trường hợp cần thiết thì cho điều trị tại bệnh xá
của cơ sở hoặc cho đi bệnh viện; trường hợp bệnh nặng, cần đưa về gia đình điều trị thì
Giám đốc cơ sở giáo dục báo cáo Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành
án hình sự và hỗ trợ tư pháp ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết
định theo quy định tại Điều 25 Nghị định này.
Trường hợp trại viên bị thương tích do tai nạn lao động, thiên tai, hỏa hoạn thì Giám
đốc cơ sở giáo dục phải làm các thủ tục để thực hiện chế độ trợ cấp cho trại
viên theo quy định.
Trường hợp trại viên có biểu hiện mắc bệnh tâm thần thì Giám đốc cơ sở giáo
dục có văn bản gửi Bệnh viện tâm thần Trung ương theo khu vực và cử cán bộ đưa
trại viên đến để đề nghị giám định tâm thần. Các bệnh viện tâm thần Trung
ương theo khu vực có trách nhiệm giám định tâm thần cho trại viên và có
kết luận bằng văn bản gửi Giám đốc cơ sở giáo dục để giải quyết theo quy định của pháp
luật.”
Điều 3. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 quy
định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo
dưỡng
1. Khoản 2 Điều 38 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị xét giảm hoặc miễn
của Hiệu trưởng trường giáo dưỡng, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án
hình sự và hỗ trợ tư pháp có trách nhiệm xem xét và ra quyết định
giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại quy định tại khoản 1 Điều này. Các
quyết định này được gửi cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết
định đưa vào trường giáo dưỡng, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi lập hồ sơ và
học sinh được xét giảm hoặc miễn chấp hành phần thời gian còn lại.”
2. Khoản 2 Điều 39 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Khi người được đưa vào trường giáo dưỡng đã chấp hành xong quyết định
thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng cấp Giấy chứng nhận cho người đó và gửi bản
sao Giấy chứng nhận đến Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ
tư pháp, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định, Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi người đó cư trú và cho cha mẹ hoặc người giám hộ của
người đó.”
Trường hợp người đã chấp hành xong quyết định mà vẫn chưa thực sự tiến bộ thì
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải có bản nhận xét riêng và kiến nghị các
biện pháp quản lý, giáo dục tiếp theo gửi Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã
nơi người đó cư trú và cơ quan Công an cấp huyện nơi đã lập hồ sơ đề nghị
đưa họ vào trường giáo dưỡng.”
Điều 4. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 66/2009/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2009 sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24 tháng 11 năm 2003 quy định
việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào trường giáo dưỡng.
1. Điểm 3 khoản 14 Điều 1 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“3. Quy mô mỗi trường giáo dưỡng được quản lý từ 500 đến 1500 học sinh. Căn cứ
vào tình hình và điều kiện cụ thể, Bộ trưởng Bộ Công an quyết định quy mô
của từng trường và địa điểm xây dựng trường giáo dưỡng. Trường giáo dưỡng
có trên 1000 học sinh có thể thành lập các phân hiệu theo quy định của Bộ
Công an.
Nếu số học sinh vượt quá quy mô của trường hoặc vì lý do chính đáng, cần
thiết khác mà phải điều chuyển học sinh từ trường giáo dưỡng này sang trường giáo
dưỡng khác thì Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự
và hỗ trợ tư pháp ra quyết định điều chuyển theo quy định của Bộ Công an. Quyết định
điều chuyển phải được gửi cho Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đã ra quyết định đưa
vào trường giáo dưỡng, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi học sinh cư trú, cha mẹ
hoặc người giám hộ của học sinh.”
2. Điểm 2, điểm 3, điểm 4 khoản 21 Điều 1 được sửa đổi, bổ sung như sau:
“2. Học sinh bị ốm được điều trị tại cơ sở y tế của trường giáo dưỡng. Trường hợp
học sinh bị ốm nặng vượt quá khả năng điều trị tại cơ sở y tế của trường giáo dưỡng
thì đưa đi bệnh viện điều trị, nếu gia đình có đơn bảo lãnh xin đưa về gia đình
điều trị, thì Hiệu trưởng trường giáo dưỡng phải báo cáo, đề nghị Tổng cục
trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp ra quyết
định tạm đình chỉ chấp hành quyết định tại trường giáo dưỡng.
Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của Hiệu trưởng trường giáo
dưỡng, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ
tư pháp có trách nhiệm xem xét, ra quyết định tạm đình chỉ chấp hành quyết
định tại trường giáo dưỡng.
Trường hợp học sinh được tạm đình chỉ để đưa về gia đình điều trị, thì gia đình
phải chi trả toàn bộ kinh phí khám, chữa bệnh cho học sinh.
3. Trường hợp học sinh bị ốm nặng phải đưa đến bệnh viện điều trị lâu dài, thì trong
thời hạn bảy ngày, kể từ ngày đưa học sinh đến bệnh viện, Hiệu trưởng trường giáo
dưỡng phải báo cáo Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình
sự và hỗ trợ tư pháp biết. Kinh phí khám, chữa bệnh cho học sinh do ngân sách
nhà nước cấp. Trường giáo dưỡng trực tiếp thanh toán tiền viện phí cho bệnh viện
nơi học sinh được chuyển đến để điều trị. Trong thời gian học sinh điều trị tại bệnh viện, trường
giáo dưỡng có trách nhiệm chăm sóc học sinh, nếu học sinh có gia đình thì
phối hợp với gia đình chăm sóc họ; trường giáo dưỡng có trách nhiệm quản
lý chặt chẽ, không để học sinh có điều kiện trốn hoặc vi phạm pháp luật.
Trường hợp học sinh có biểu hiện mắc bệnh tâm thần thì Hiệu trưởng trường giáo
dưỡng có văn bản gửi Bệnh viện tâm thần Trung ương theo khu vực, đồng thời, cử cán
bộ đưa học sinh đến để giám định tâm thần. Các bệnh viện tâm thần trung ương
theo khu vực có trách nhiệm giám định cho học sinh theo đề nghị của Hiệu trưởng trường
giáo dưỡng và có kết luận bằng văn bản gửi Hiệu trưởng trường giáo dưỡng để
làm thủ tục theo quy định của pháp luật.
Thời gian học sinh điều trị bệnh quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này được tính
vào thời gian thi hành quyết định. Một ngày điều trị được tính bằng một ngày
chấp hành quyết định. Nếu sau khi sức khỏe được phục hồi mà thời hạn chấp hành quyết
định còn lại từ sáu tháng trở lên thì học sinh phải tiếp tục chấp hành
quyết định tại trường giáo dưỡng. Nếu thời gian còn lại dưới sáu tháng, thì
Hiệu trưởng trường giáo dưỡng báo cáo đề nghị Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát
Thi hành án hình sự và hỗ trợ tư pháp xem xét, ra quyết định miễn chấp
hành phần thời gian còn lại cho học sinh đó.
4. Đối với trường hợp học sinh mắc bệnh hiểm nghèo hoặc phụ nữ có thai thì được
miễn chấp hành phần thời gian còn lại. Trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày nhận
được đề nghị xét miễn chấp hành phần thời gian còn lại của Hiệu trưởng trường
giáo dưỡng, Tổng cục trưởng Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và
hỗ trợ tư pháp có trách nhiệm xem xét và ra quyết định miễn chấp hành
phần thời gian còn lại cho học sinh đó.”
Điều 5. Hiệu lực thi hành
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15 tháng 02 năm 2011.
Điều 6. Trách nhiệm thi hành
1. Bộ trưởng Bộ Công an chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và hướng dẫn, kiểm tra việc
thực hiện Nghị định này.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành
Nghị định này./.