NGHỊ QUYẾT CỦA HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Thủ tục
giải quyết vụ án tại Toà án cấp phúc thẩm" của Bộ luật tố tụng dân sự
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định tại Phần thứ ba "Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án
cấp phúc thẩm" của Bộ luật tố tụng dân sự (sau đây viết tắt là BLTTDS);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
I. VỀ CHƯƠNG XV "TÍNH CHẤT CỦA XÉT XỬ PHÚC THẨM VÀ KHÁNG CÁO, KHÁNG NGHỊ BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH CỦA TOÀ
ÁN CẤP SƠ THẨM"
1. Về Điều 243 của BLTTDS
1.1. Đối tượng mà đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền
làm đơn kháng cáo để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm bao
gồm: bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ thẩm.
1.2. Đương sự là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự có thể tự mình làm đơn kháng
cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự
có kháng cáo. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.3. Đương sự là người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi không mất năng lực hành
vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc
giao dịch dân sự bằng tài sản riêng của mình là đương sự trong vụ án về tranh chấp có liên quan đến
hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa
chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự có kháng cáo. Đồng thời
ở phần cuối đơn kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.4. Đương sự được hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 và tiểu mục 1.3 mục 1 này nếu không tự mình kháng
cáo, thì có thể uỷ quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo, trừ kháng cáo bản án, quyết định
của Toà án cấp sơ thẩm về ly hôn. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ,
tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền có kháng cáo; họ, tên, địa chỉ của đương sự uỷ
quyền kháng cáo và văn bản uỷ quyền. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo
uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.5. Đương sự là cơ quan, tổ chức có quyền kháng cáo. Người đại diện theo pháp luật của đương sự
là cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng
cáo trong đơn phải ghi tên, địa chỉ của đương sự là cơ quan, tổ chức; họ, tên, chức vụ của người
đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo,
người đại diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức uỷ quyền cho người khác
đại diện cho cơ quan, tổ chức kháng cáo, thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải
ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo; tên, địa chỉ của đương sự là
cơ quan, tổ chức uỷ quyền; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là
cơ quan, tổ chức đó và văn bản uỷ quyền. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện
theo uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.6. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là người chưa thành niên (trừ trường hợp được
hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 này), người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong
đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật; họ, tên, địa chỉ của đương
sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền cho người khác đại diện cho mình
kháng cáo, thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của
người đại diện theo uỷ quyền và văn bản uỷ quyền; họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo
pháp luật của đương sự uỷ quyền; họ, tên, địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời ở phần cuối
đơn kháng cáo, người đại diện theo uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
1.7. Cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 162 của BLTTDS là người đại diện theo pháp luật trong tố tụng
dân sự của người được bảo vệ. Người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó có thể
tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi tên, địa
chỉ của cơ quan, tổ chức và họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ
chức đó; họ, tên, địa chỉ của người có quyền và lợi ích hợp pháp được bảo vệ. Đồng thời ở
phần cuối đơn, người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu của
cơ quan, tổ chức đó.
1.8. Việc uỷ quyền được hướng dẫn tại các tiểu mục 1.4, 1.5 và 1.6 mục 1 Phần I của Nghị quyết này
phải được làm thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền
đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ Toà án được Chánh án Toà
án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải có nội dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ
quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ
thẩm.
2. Về Điều 244 của BLTTDS
2.1. Để bảo đảm cho việc làm đơn kháng cáo đúng và thống nhất, Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người
kháng cáo làm đơn kháng cáo theo đúng mẫu và ghi đầy đủ nội dung theo hướng dẫn sử dụng mẫu đơn
kháng cáo được ban hành kèm theo Nghị quyết này. Toà án cấp sơ thẩm phải niêm yết công khai tại trụ
sở Toà án nhân dân mẫu đơn kháng cáo và hướng dẫn sử dụng mẫu đơn kháng cáo.
2.2. Việc nhận đơn kháng cáo và xử lý đơn kháng cáo tại Tòa án cấp sơ thẩm.
a) Tòa án cấp sơ thẩm phải có sổ nhận đơn kháng cáo để ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo làm
căn cứ xác định ngày kháng cáo.
b) Toà án cấp sơ thẩm thực hiện thủ tục nhận đơn kháng cáo như sau:
b.1) Trường hợp người kháng cáo trực tiếp nộp đơn kháng cáo tại Toà án cấp sơ thẩm, thì Toà án cấp
sơ thẩm ghi ngày, tháng, năm người kháng cáo nộp đơn vào sổ nhận đơn kháng cáo. Ngày kháng cáo được
xác định là ngày nộp đơn kháng cáo.
b.2) Trường hợp người kháng cáo gửi đơn kháng cáo đến Toà án cấp sơ thẩm qua bưu điện, thì Toà án
phải ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo do bưu điện chuyển đến và ngày, tháng, năm người kháng cáo
gửi đơn theo ngày, tháng, năm có dấu bưu điện nơi gửi đơn vào sổ nhận đơn. Phong bì có dấu bưu điện
phải được đính kèm đơn kháng cáo. Ngày kháng cáo được xác định là ngày có dấu bưu điện nơi gửi
đơn.
Trường hợp không có hoặc không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện nơi gửi trên phong
bì, thì Toà án phải ghi chú trong sổ nhận đơn và vào góc bên trái của đơn kháng cáo là "không xác định
được ngày, tháng, năm". Trường hợp này ngày kháng cáo được xác định là ngày Toà án nhận được đơn.
Khi kiểm tra đơn kháng cáo, nếu thấy đơn kháng cáo này quá hạn thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người
kháng cáo trình bày rõ lý do bằng văn bản theo quy định tại khoản 2 Điều 246 của BLTTDS và hướng dẫn
tại tiểu mục 5.1 mục 5 Phần I của Nghị quyết này. Nếu đơn kháng cáo đúng hạn quy định tại Điều
245 của BLTTDS, thì Toà án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục quy định tại Điều 248 của BLTTDS và hướng
dẫn tại mục 6 Phần I của Nghị quyết này.
b.3) Toà án phải ghi (hoặc đóng dấu nhận đơn kháng cáo có ghi) ngày, tháng, năm nhận đơn vào góc trên bên
trái của đơn kháng cáo.
c) Khi nhận được đơn kháng cáo do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến, theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.3
mục 2 này, Toà án cấp sơ thẩm phải kiểm tra xem đã nhận được đơn kháng cáo có cùng nội dung do cùng
người kháng cáo gửi đến chưa để xử lý như sau:
c.1) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm đã nhận được đơn kháng cáo có nội dung trùng với nội dung đơn
kháng cáo do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến, thì Toà án cấp sơ thẩm ghi chú vào đơn kháng cáo đó và
đính kèm với đơn kháng cáo đã nhận để lưu vào hồ sơ vụ án.
c.2) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm chưa nhận được đơn kháng cáo hoặc đã nhận được đơn kháng cáo,
nhưng một phần hoặc toàn bộ nội dung kháng cáo khác với nội dung kháng cáo do Toà án cấp phúc thẩm chuyển
đến, thì Tòa án cấp sơ thẩm ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến
và ngày, tháng, năm nhận đơn kháng cáo theo ngày, tháng, năm mà Toà án cấp phúc thẩm ghi ở góc trên bên
trái của đơn kháng cáo vào sổ nhận đơn. Trong trường hợp này việc xác định ngày kháng cáo được thực
hiện theo hướng dẫn tại các điểm b.1 và b.2 tiểu mục 2.2 mục 2 này.
2.3. Việc nhận đơn kháng cáo và xử lý đơn kháng cáo tại Tòa án cấp phúc thẩm.
Trường hợp người kháng cáo trực tiếp nộp đơn kháng cáo tại Toà án cấp phúc thẩm hoặc gửi đơn kháng
cáo đến Toà án cấp phúc thẩm qua bưu điện, thì khi nhận đơn kháng cáo Toà án cấp phúc thẩm cũng phải
vào sổ nhận đơn kháng cáo để theo dõi. Toà án cấp phúc thẩm phải ghi ngày, tháng, năm nhận đơn kháng
cáo theo hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 2.2 mục 2 này. Đồng thời Toà án cấp phúc thẩm phải chuyển
ngay đơn kháng cáo và các tài liệu, chứng cứ kèm theo (nếu có) cho Toà án cấp sơ thẩm đã ra bản án,
quyết định sơ thẩm bị kháng cáo để Tòa án cấp sơ thẩm tiến hành các thủ tục cần thiết và gửi
kèm hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại Điều 255 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục
9 Phần I của Nghị quyết này. Việc chuyển đơn kháng cáo cho Toà án cấp sơ thẩm phải được ghi chú vào
sổ nhận đơn để theo dõi. Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo cho người kháng cáo biết về việc đã
nhận được đơn kháng cáo và chuyển đơn kháng cáo cho Toà án cấp sơ thẩm để họ liên hệ với Toà án
cấp sơ thẩm thực hiện quyền, nghĩa vụ của người kháng cáo theo thủ tục chung.
2.4. Sau khi nhận đơn kháng cáo do người kháng cáo nộp trực tiếp, Toà án cấp sơ thẩm phải cấp ngay giấy
báo nhận đơn kháng cáo cho người kháng cáo. Nếu Toà án cấp sơ thẩm nhận đơn kháng cáo gửi qua bưu điện
hoặc do Toà án cấp phúc thẩm chuyển đến, thì Toà án cấp sơ thẩm gửi ngay giấy báo nhận đơn kháng
cáo để thông báo cho người kháng cáo biết.
2.5. Trường hợp người kháng cáo nộp hoặc gửi kèm theo đơn kháng cáo tài liệu, chứng cứ bổ sung để
chứng minh cho kháng cáo của mình là có căn cứ và hợp pháp, thì việc giao nhận tài liệu, chứng cứ bổ
sung do người kháng cáo nộp hoặc gửi kèm theo đơn kháng cáo được thực hiện theo hướng dẫn tại Phần
V của Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng
dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về "Chứng minh và chứng cứ".
2.6. Trong trường hợp người kháng cáo đến Toà án cấp sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm trình bày trực
tiếp về việc kháng cáo, thì Toà án cấp sơ thẩm hoặc Toà án cấp phúc thẩm giải thích cho họ biết là
theo quy định tại Điều 243 của BLTTDS thì người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo, để họ tự mình làm
đơn kháng cáo hoặc uỷ quyền cho người khác kháng cáo.
3. Về Điều 245 và Điều 252 của BLTTDS
3.1. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác
định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm
hoặc là ngày bản án sơ thẩm được giao hoặc được niêm yết đối với đương sự không có mặt tại
phiên toà sơ thẩm.
3.2. Thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị bản án sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được
xác định. Ngày được xác định là ngày Toà án tuyên án, trong trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp tham
gia phiên toà sơ thẩm hoặc là ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án sơ thẩm trong trường hợp
Viện kiểm sát cùng cấp không tham gia phiên toà sơ thẩm.
Ví dụ: Ngày 01-10-2005 Toà án xét xử sơ thẩm vụ án dân sự và cùng ngày 01-10-2005 Toà án tuyên án, thì ngày
được xác định và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo, kháng nghị như sau:
- Đối với đương sự có mặt tại phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định là ngày 01-10-2005 và thời
điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 02-10-2005.
- Đối với đương sự không có mặt tại phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 15-10-2005 Toà án cấp sơ thẩm
mới giao bản án sơ thẩm cho đương sự, thì ngày được xác định là ngày 15-10-2005 và thời điểm bắt
đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 16-10-2005; nếu Toà án cấp sơ thẩm không thể giao
trực tiếp bản án sơ thẩm cho đương sự mà phải niêm yết công khai và giả sử ngày niêm yết công khai
tại trụ sở Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi cư trú của đương sự là ngày 16-10-2005, thì ngày được xác định
là ngày 16-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo mười lăm ngày là ngày 17-10-2005.
- Trường hợp đại diện Viện kiểm sát cùng cấp có tham gia phiên toà sơ thẩm, thì ngày được xác định
là ngày 01-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị mười lăm ngày (đối với Viện kiểm
sát cùng cấp), ba mươi ngày (đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp) là ngày 02-10-2005.
- Trường hợp đại diện Viện kiểm sát cùng cấp không tham gia phiên toà sơ thẩm và giả sử ngày 15-10-2005
Viện kiểm sát cùng cấp mới nhận được bản án của Toà án cấp sơ thẩm, thì ngày được xác định
là ngày 15-10-2005 và thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng nghị mười lăm ngày (đối với Viện kiểm
sát cùng cấp), ba mươi ngày (đối với Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp) là ngày 16-10-2005.
3.3. Thời điểm bắt đầu thời hạn kháng cáo, kháng nghị quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết
vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là ngày tiếp theo của ngày được xác định. Ngày được xác định là
ngày người có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định đó.
a) Trường hợp quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án được ban hành tại phiên toà sơ
thẩm và Hội đồng xét xử giao ngay quyết định này cùng ngày cho đương sự có mặt tại phiên toà, đại
diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà (nếu có), thì ngày được xác định là ngày ban hành quyết định
đó. Nếu ngày giao quyết định không cùng với ngày ban hành quyết định, thì ngày được xác định là ngày
giao quyết định cho đương sự, Viện kiểm sát cùng cấp.
b) Trường hợp quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án được ban hành trước khi mở phiên
toà sơ thẩm hoặc tại phiên toà sơ thẩm mà đương sự vắng mặt, thì ngày được xác định đối với
đương sự là ngày quyết định đó được giao hoặc được niêm yết; đối với Viện kiểm sát cùng cấp
và cấp trên trực tiếp là ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được quyết định đó.
3.4. Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị
Thời điểm kết thúc thời hạn kháng cáo, kháng nghị là thời điểm kết thúc ngày cuối cùng của thời
hạn. Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày nghỉ cuối tuần (thứ bảy, chủ nhật) hoặc ngày nghỉ
lễ, thì thời hạn kháng cáo, kháng nghị kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ của ngày làm việc đầu tiên
tiếp theo ngày nghỉ đó.
Ví dụ: Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày được tính bắt đầu từ ngày 02-10-2005. Theo quy định tại
khoản 1 Điều 245 của BLTTDS, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày (đối với đương sự có mặt tại
phiên toà) kết thúc vào lúc hai mươi tư giờ ngày 16-10-2005 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần, ngày
nghỉ lễ). Giả sử ngày 16-10-2005 là ngày nghỉ lễ, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào
lúc hai mươi tư giờ ngày 17-10-2005 (nếu không đúng vào ngày nghỉ cuối tuần); giả sử sau ngày nghỉ lễ
(17-10-2005), ngày 18-10-2005 đúng vào ngày thứ bảy, thì thời hạn kháng cáo mười lăm ngày kết thúc vào lúc
hai mươi tư giờ ngày 20-10-2005.
4. Về Điều 246 của BLTTDS
4.1. Sau khi nhận được đơn kháng cáo, Tòa án cấp sơ thẩm phải kiểm tra đơn kháng cáo có đầy đủ các
nội dung quy định tại khoản 1 Điều 244 và người làm đơn kháng cáo có thuộc chủ thể có quyền kháng
cáo được quy định tại Điều 243 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 1 Phần I của Nghị quyết này hay
không; đồng thời kiểm tra kháng cáo có được làm trong thời hạn quy định tại Điều 245 của BLTTDS và
được hướng dẫn tại mục 3 Phần I của Nghị quyết này hay không để tiến hành tiếp các công việc theo
quy định của BLTTDS và hướng dẫn của Nghị quyết này. Trường hợp đơn kháng cáo làm trong thời hạn
luật định và là của người có quyền kháng cáo nhưng chưa có đầy đủ các nội dung chính quy định tại
khoản 1 Điều 244 của BLTTDS hoặc nội dung kháng cáo chưa cụ thể, thì Tòa án cấp sơ thẩm phải thông báo
(trực tiếp hoặc bằng văn bản) ngay cho người kháng cáo để họ sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo cho đầy
đủ hoặc thể hiện nội dung kháng cáo cho cụ thể, rõ ràng theo quy định của pháp luật.
4.2. Việc thông báo và thực hiện yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo được thực hiện như sau:
a) Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo sửa đổi, bổ sung đơn trong thời hạn do Toà án cấp sơ
thẩm ấn định nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày người kháng cáo nhận được thông báo của
Toà án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo, trừ trường hợp có trở ngại khách quan, thì thời gian
có trở ngại khách quan không tính vào thời hạn sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo.
b) Trong thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo phải nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi,
bổ sung cho người kháng cáo biết để họ thực hiện.
c) Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn không tính vào thời hạn kháng cáo. Ngày kháng cáo vẫn
được xác định theo hướng dẫn tại tiểu mục 2.2 mục 2 Phần I của Nghị quyết này.
d) Sau khi người kháng cáo đã sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo theo yêu cầu của Toà án, thì Toà án cấp
sơ thẩm tiếp tục thực hiện các thủ tục theo quy định tại Điều 248 của BLTTDS. Hết thời hạn do Toà
án ấn định mà người kháng cáo không thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo và đơn kháng
cáo không có đầy đủ các nội dung chính quy định tại khoản 1 Điều 244 của BLTTDS, thì đơn kháng cáo
không được coi là hợp lệ. Toà án cấp sơ thẩm trả lại đơn cho người kháng cáo và ghi chú vào sổ nhận
đơn về việc trả lại đơn.
đ) Nếu qua kiểm tra mà phát hiện thấy đơn kháng cáo là của người không có quyền kháng cáo hoặc nội
dung kháng cáo không thuộc giới hạn của việc kháng cáo, thì trong thời hạn ba ngày làm việc, kể từ ngày
nhận được đơn, Toà án cấp sơ thẩm trả lại đơn và ghi chú vào sổ nhận đơn về việc trả lại đơn.
e) Việc trả lại đơn kháng cáo được hướng dẫn tại điểm d và điểm đ tiểu mục 4.2 mục 4 này phải
được thông báo bằng văn bản trong đó ghi rõ lý do của việc trả lại đơn.
5. Về Điều 247 của BLTTDS
5.1. Trường hợp đơn kháng cáo là của người có quyền kháng cáo, nội dung kháng cáo thuộc giới hạn kháng
cáo, nhưng quá thời hạn kháng cáo quy định tại Điều 245 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 3 Phần I của
Nghị quyết này mà người kháng cáo chưa tường trình hoặc có tường trình nhưng lý do kháng cáo quá hạn
không rõ ràng, thì Toà án cấp sơ thẩm phải có văn bản yêu cầu người kháng cáo tường trình cụ thể
bằng văn bản về lý do kháng cáo quá hạn và xuất trình tài liệu, chứng cứ (nếu có) để chứng minh cho
lý do nộp đơn kháng cáo quá hạn là chính đáng. Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo quá hạn
tường trình cụ thể bằng văn bản về lý do kháng cáo quá hạn và xuất trình tài liệu, chứng cứ (nếu
có) trong thời hạn do Toà án cấp sơ thẩm ấn định nhưng không quá năm ngày làm việc, kể từ ngày người
kháng cáo nhận được thông báo của Toà án yêu cầu làm bản tường trình về lý do kháng cáo quá hạn.
Toà án có thể giao trực tiếp hoặc gửi văn bản này cho người kháng cáo qua bưu điện.
"Lý do chính đáng" là trường hợp bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác (như: do thiên tai, lũ lụt;
do ốm đau, tai nạn phải điều trị tại bệnh viện...) làm cho người kháng cáo không thể thực hiện được
việc kháng cáo trong thời hạn luật định.
5.2. Toà án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình về lý do kháng cáo quá hạn và các tài
liệu, chứng cứ (nếu có) chứng minh lý do của việc kháng cáo quá hạn cho Toà án cấp phúc thẩm để xét
kháng cáo quá hạn. Nếu trong vụ án chỉ có kháng cáo quá hạn, không có kháng cáo khác, không có kháng nghị,
thì Toà án cấp sơ thẩm chưa phải gửi hồ sơ vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm.
5.3. Việc kháng cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng được hướng dẫn tại
tiểu mục 5.1 mục 5 này.
5.4. Việc xét lý do kháng cáo quá hạn phải được thực hiện trước khi mở phiên toà phúc thẩm không phụ
thuộc vào việc ngoài các đương sự kháng cáo quá hạn, trong vụ án còn có kháng cáo của các đương sự
khác trong thời hạn quy định tại Điều 245 của BLTTDS hoặc kháng nghị của Viện kiểm sát quy định tại
Điều 252 của BLTTDS; do đó, khi nhận được hồ sơ vụ án có nhiều người kháng cáo, Toà án cấp phúc thẩm
phải kiểm tra có kháng cáo nào quá hạn hay không. Nếu có thì phải xét lý do kháng cáo quá hạn trước khi
mở phiên toà.
5.5. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn và tài liệu, chứng cứ
kèm theo, Toà án cấp phúc thẩm thành lập Hội đồng gồm ba Thẩm phán để xem xét đơn kháng cáo quá hạn.
Trong trường hợp cần thiết Hội đồng xét đơn kháng cáo quá hạn có quyền triệu tập người kháng cáo
quá hạn đến phiên họp trình bày bổ sung về lý do kháng cáo quá hạn hoặc yêu cầu họ cung cấp tài liệu,
giấy tờ bổ sung chứng minh cho việc kháng cáo quá hạn của mình là có lý do chính đáng. Đại diện Viện
kiểm sát cùng cấp tham gia phiên họp xét lý do kháng cáo quá hạn đối với các trường hợp Viện kiểm
sát phải tham gia phiên toà phúc thẩm quy định tại khoản 2 Điều 264 của BLTTDS.
Trước khi Hội đồng xét đơn kháng cáo quá hạn thảo luận, một thành viên của Hội đồng nêu tóm tắt
nội dung đơn kháng cáo quá hạn, các tài liệu, chứng cứ chứng minh lý do của việc kháng cáo quá hạn.
Nếu người kháng cáo quá hạn được triệu tập đến phiên họp thì Hội đồng xét đơn kháng cáo có thể
yêu cầu trình bày bổ sung lý do kháng cáo quá hạn. Hội đồng xét đơn kháng cáo quá hạn có quyền ra quyết
định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn. Quyết định chấp nhận hoặc không chấp
nhận kháng cáo quá hạn phải được gửi ngay cho Toà án cấp sơ thẩm và người kháng cáo quá hạn. Trường
hợp nhận được quyết định chấp nhận kháng cáo quá hạn của Toà án cấp phúc thẩm, thì Toà án cấp
sơ thẩm phải thông báo theo quy định tại Điều 249 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 Phần I của Nghị
quyết này. Toà án cấp sơ thẩm phải tiến hành các thủ tục theo quy định của BLTTDS và gửi hồ sơ vụ
án cho Toà án cấp phúc thẩm (nếu hồ sơ vụ án còn ở Toà án cấp sơ thẩm).
5.6. Thẩm phán Toà án cấp phúc thẩm đã tham gia Hội đồng xét đơn kháng cáo quá hạn vẫn có thể tham gia
Hội đồng xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung.
6. Về Điều 248 của BLTTDS
6.1. Sau khi chấp nhận đơn kháng cáo hợp lệ, nếu người kháng cáo được miễn án phí hoặc không phải
nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm tiến hành thủ tục thông báo về việc kháng
cáo và gửi hồ sơ cho Toà án cấp phúc thẩm theo quy định tại khoản 1 Điều 249 và khoản 1 Điều 255 của
BLTTDS. Trường hợp họ phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm phải thông
báo bằng văn bản cho người kháng cáo biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Thông báo phải
ghi rõ số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm phải nộp, nơi nộp tiền, thời hạn nộp tiền và hậu quả
của việc không nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm. Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm được
giao trực tiếp hoặc gửi cho người kháng cáo qua bưu điện.
6.2. Trong thời hạn mười ngày, kể từ ngày nhận được thông báo của Toà án về việc nộp tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm, người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí và nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên
lai nộp tiền tạm ứng án phí. Nếu hết thời hạn này mà người kháng cáo không nộp tiền tạm ứng án
phí phúc thẩm mà không có lý do chính đáng, thì được coi là họ từ bỏ việc kháng cáo.
"Lý do chính đáng" là trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 mục 5 Phần I của Nghị quyết này.
6.3. Trong trường hợp sau khi hết thời hạn mười ngày, người kháng cáo mới nộp cho Toà án biên lai nộp
tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và không có tường trình về lý do chậm nộp biên lai nộp tiền tạm ứng
án phí phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm yêu cầu người kháng cáo trong thời hạn ba ngày làm việc, kể
từ ngày Toà án yêu cầu phải làm bản tường trình nộp cho Toà án cấp sơ thẩm để đưa vào hồ sơ vụ
án. Trường hợp này được coi như kháng cáo quá hạn và Toà án cấp sơ thẩm thực hiện theo hướng dẫn
tại mục 5 Phần I của Nghị quyết này.
6.4. Toà án cấp sơ thẩm không phải tiến hành thủ tục thông báo về việc kháng cáo đã được coi là từ
bỏ hướng dẫn tại tiểu mục 6.2 mục 6 này và không phải gửi hồ sơ cho Toà án cấp phúc thẩm, trừ trường
hợp trong vụ án còn có kháng cáo của người khác, kháng nghị của Viện kiểm sát.
7. Về Điều 249 của BLTTDS
7.1. Khi thực hiện thông báo về việc kháng cáo, Toà án cấp sơ thẩm không phải thông báo về việc kháng
cáo cho chính người đã kháng cáo. Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo ngay bằng văn bản cho Viện kiểm
sát cùng cấp và đương sự có liên quan đến kháng cáo (nếu việc xét xử phúc thẩm vụ án do có kháng
cáo có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự đó) biết về việc kháng cáo.
7.2. Đương sự được thông báo về việc kháng cáo có quyền gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội
dung kháng cáo cho Toà án cấp phúc thẩm. Văn bản nêu ý kiến của người được thông báo phải được lưu
vào hồ sơ vụ án. Trường hợp người được thông báo gửi văn bản nêu ý kiến của mình về nội dung
kháng cáo cho Toà án cấp sơ thẩm mà hồ sơ vụ án chưa gửi cho Toà án cấp phúc thẩm, thì Toà án cấp
sơ thẩm đưa văn bản này vào hồ sơ vụ án và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm; nếu hồ sơ vụ án đã gửi
cho Toà án cấp phúc thẩm, thì Toà án cấp sơ thẩm phải gửi văn bản đó cho Toà án cấp phúc thẩm để
đưa vào hồ sơ vụ án và xem xét khi xét xử phúc thẩm.
8. Về Điều 254 của BLTTDS
Những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị thì có hiệu lực pháp luật,
kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và được đưa ra thi hành khi có đầy đủ các điều kiện
sau đây:
a) Độc lập với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị;
b) Việc xét kháng cáo, kháng nghị đối với những phần của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị không có liên quan đến những phần của bản án, quyết định sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng
nghị.
Ví dụ: Tại bản án số 35/2006/HNGĐ-ST ngày 15-02-2006, Toà án nhân dân huyện H, tỉnh HT. Đã quyết định cho
anh A được ly hôn chị B; giao chị B trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung là cháu C, anh A phải
có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 200.000 đồng và chia tài sản chung của vợ chồng cho anh A và
chị B. Sau khi xét xử sơ thẩm anh A không kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị. Chị B chỉ kháng cáo
bản án sơ thẩm về quyết định chia tài sản chung của vợ chồng.
Như vậy, những phần của bản án sơ thẩm về ly hôn giữa anh A và chị B; về trông nom, nuôi dưỡng, chăm
sóc, giáo dục con, nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn không bị kháng cáo, kháng nghị, độc lập
với phần bản án sơ thẩm bị chị B kháng cáo và việc xét kháng cáo phần bản án sơ thẩm này không có
liên quan đến những phần của bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị; do đó những phần của
bản án sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật và được đưa ra thi hành.
9. Về Điều 255 của BLTTDS
9.1. Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho
Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị,
nếu người kháng cáo không phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm và trong vụ án không có người khác
kháng cáo.
9.2. Nếu người kháng cáo phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì thời hạn năm ngày làm việc để
Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp
phúc thẩm, được tính kể từ ngày người kháng cáo nộp cho Toà án cấp sơ thẩm biên lai nộp tiền tạm
ứng án phí phúc thẩm.
9.3. Nếu có nhiều người kháng cáo và họ đều phải nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm, thì thời hạn
năm ngày làm việc để Toà án cấp sơ thẩm gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị, tài liệu, chứng
cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm, được tính kể từ ngày người nộp cuối cùng cho Toà án cấp sơ
thẩm biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm.
10. Về Điều 256 của BLTTDS
10.1. Về việc thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp vẫn còn thời hạn kháng cáo, kháng nghị quy định tại Điều 245 và Điều 252 của BLTTDS,
thì người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung nội dung kháng cáo, kháng
nghị đối với phần bản án hoặc toàn bộ bản án mà mình có quyền kháng cáo, kháng nghị.
Trường hợp người kháng cáo, Viện kiểm sát đã rút một phần hoặc toàn bộ kháng cáo, kháng nghị nhưng
sau đó có kháng cáo, kháng nghị lại mà vẫn còn trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị, thì vẫn được chấp
nhận để xét xử phúc thẩm theo thủ tục chung.
b) Trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 245 và Điều 252 của BLTTDS,
thì trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm người kháng cáo, Viện kiểm sát đã kháng
nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo, kháng
nghị đã gửi cho Toà án trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
10.2. Về việc rút kháng cáo, kháng nghị.
a) Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần của vụ án mà
người kháng cáo đã rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát đã rút kháng nghị khi có đủ các điều kiện sau
đây:
a.1) Người kháng cáo rút kháng cáo hoặc Viện kiểm sát rút kháng nghị mà trong vụ án không còn có kháng
cáo của người khác, không có kháng nghị của Viện kiểm sát đối với phần của bản án, quyết định
sơ thẩm đó.
a.2) Phần bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo hoặc kháng nghị mà kháng cáo hoặc kháng nghị đó
đã được rút độc lập với những phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
và việc xét kháng cáo, kháng nghị này không liên quan đến phần bản án, quyết định sơ thẩm có kháng
cáo hoặc kháng nghị đã được rút.
Ví dụ: Trong ví dụ nêu tại điểm b mục 8 Phần I của Nghị quyết này, sau khi xét xử sơ thẩm, anh A không
kháng cáo, Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm mà chỉ có chị B kháng cáo bản án sơ thẩm
về quyết định chia tài sản chung của vợ chồng. Trước khi mở phiên toà phúc thẩm hoặc tại phiên toà
phúc thẩm nếu chị B rút kháng cáo, thì Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
đối với phần của vụ án mà chị B đã rút kháng cáo vì trong vụ án không có kháng cáo của người khác,
không có kháng nghị của Viện kiểm sát.
Trường hợp anh A cũng kháng cáo bản án sơ thẩm về quyết định chia tài sản chung của vợ chồng vì lý
do Toà án cấp sơ thẩm quyết định buộc anh A phải thanh toán một số khoản nợ mà chị B vay không sử
dụng cho mục đích chung của vợ chồng, mặc dù chị B rút kháng cáo, thì phần bản án sơ thẩm mà chị
B rút kháng cáo vẫn có liên quan đến phần bản án sơ thẩm bị anh A kháng cáo. Do đó, trường hợp này
Toà án cấp phúc thẩm không ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần của vụ án mà
chị B đã rút kháng cáo.
b) Trường hợp người kháng cáo rút toàn bộ kháng cáo và Viện kiểm sát rút toàn bộ kháng nghị trước
khi bắt đầu hoặc tại phiên toà (trong vụ án không còn có kháng cáo, kháng nghị), thì việc xét xử phúc
thẩm phải được đình chỉ. Trước khi mở phiên toà việc ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm
do Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên toà thực hiện, còn tại phiên toà do Hội đồng xét xử thực
hiện. Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định đình
chỉ xét xử phúc thẩm.
10.3. Về hình thức thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị.
a) Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản
và gửi cho Toà án cấp phúc thẩm.
Toà án cấp phúc thẩm phải thông báo bằng văn bản về việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị
đó cho các đương sự biết theo quy định tại khoản 3 Điều 256 của BLTTDS và hướng dẫn tại tiểu mục
7.1 mục 7 Phần I của Nghị quyết này, đồng thời tiến hành các công việc theo quy định của BLTTDS để
mở phiên toà xét xử phúc thẩm vụ án đối với kháng cáo, kháng nghị, phần kháng cáo, kháng nghị còn
lại theo thủ tục chung.
b) Việc thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo, kháng nghị tại phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà.
Toà án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ tục chung đối với kháng cáo, kháng
nghị đã được thay đổi, bổ sung và phần kháng cáo, kháng nghị còn lại.
II. VỀ CHƯƠNG XVI "CHUẨN BỊ XÉT XỬ PHÚC THẨM"
1. Về khoản 2 Điều 257 của BLTTDS
1.1. Đối với Toà án nhân dân cấp tỉnh, Chánh án Toà án có thể uỷ nhiệm cho một Phó Chánh án hoặc uỷ
quyền cho Chánh toà hoặc Phó Chánh toà thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán
làm chủ toạ phiên toà.
1.2. Đối với Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao, Chánh toà có thể uỷ nhiệm cho một Phó Chánh toà thành
lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một Thẩm phán làm chủ toạ phiên toà.
1.3. Khi phân công Thẩm phán tham gia Hội đồng xét xử phúc thẩm, thì cần tiếp tục phân công các Thẩm phán
đã tham gia Hội đồng xét kháng cáo quá hạn. Việc phân công này không phải ra quyết định.
2. Về Điều 258 của BLTTDS
Điều 258 của BLTTDS quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm; do đó, các thời hạn quy định trong Điều
này đều được tính trong thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm. Tuỳ từng trường hợp cụ thể thời
hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm được tính như sau:
2.1. Trường hợp có quyết định đưa vụ án ra xét xử.
a) Nếu không phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, thì thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa là hai tháng,
kể từ ngày Toà án thụ lý vụ án.
b) Nếu phải kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở
ngại khách quan, thì thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm tối đa là ba tháng, kể từ ngày Toà án thụ
lý vụ án.
c) Trong các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm a và b tiểu mục 2.1. mục 2 này mà phiên toà không
được mở trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử vì có lý do chính
đáng, thì thời hạn chuẩn bị xét xử đối với từng trường hợp được cộng thêm tối đa là một tháng
nữa.
2.2. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự.
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, thì thời hạn chuẩn bị xét
xử kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bắt đầu
tính lại, kể từ ngày Toà án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình chỉ
không còn nữa.
2.3. Về việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm.
Đối với những vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan quy định tại khoản 1 Điều
258 của BLTTDS mà thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm gần hết (thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm
còn lại không quá năm ngày) và Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà thấy rằng vụ án phức
tạp nên chưa thể ra được một trong những quyết định quy định tại khoản 1 Điều 258 của BLTTDS, thì
cần phải báo ngay với Chánh án Toà án cấp phúc thẩm để ra quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị
xét xử phúc thẩm. Việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm không được quá thời hạn quy định
tại đoạn cuối khoản 1 Điều 258 của BLTTDS và hướng dẫn tại điểm b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần II của
Nghị quyết này. Hết thời hạn được gia hạn, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải
ra một trong những quyết định quy định tại khoản 1 Điều 258 của BLTTDS.
Việc xác định những vụ án có tính chất phức tạp, trở ngại khách quan, lý do chính đáng được thực
hiện theo hướng dẫn tại tiểu mục 1.3 mục 1 Phần II của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai "Thủ
tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm" của BLTTDS.
2.4. Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà phúc thẩm ra quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.
Quyết định này phải theo đúng mẫu quyết định ban hành kèm theo Nghị quyết này.
Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát cùng cấp và những
người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị sau khi Toà án ra quyết định, không phân biệt vụ án đó
Viện kiểm sát cùng cấp có tham gia phiên toà phúc thẩm hay không.
3. Về khoản 2 Điều 262 của BLTTDS
Trường hợp Viện kiểm sát cùng cấp tham gia phiên toà phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc thẩm gửi hồ sơ
vụ án cùng với quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cho Viện kiểm sát theo hướng dẫn tại điểm
b tiểu mục 2.1 mục 2 Phần I Thông tư liên tịch số 03/2005/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 01-9-2005 của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao "Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự và sự tham gia của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ việc dân sự".
III. VỀ CHƯƠNG XVII "THỦ TỤC XÉT XỬ PHÚC THẨM"
1. Về Điều 263 của BLTTDS
Có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị là trường hợp việc giải quyết kháng cáo,
kháng nghị đối với phần này của bản án, quyết định sơ thẩm đòi hỏi phải xem xét, giải quyết đồng
thời phần khác của bản án, quyết định sơ thẩm đó mặc dù phần này không bị kháng cáo, kháng nghị.
Ví dụ: Tại bản án số 45/2006/DS-ST ngày 17-3-2006, Toà án nhân dân huyện K, tỉnh TN đã quyết định xử chia
di sản thừa kế của ông N cho năm thừa kế theo pháp luật của ông N. Toà án cấp sơ thẩm còn quyết định
các thừa kế của ông N phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do ông N để lại đối với ông B. Sau khi
xét xử sơ thẩm, ông B kháng cáo phần bản án sơ thẩm về thanh toán nghĩa vụ tài sản mà các thừa kế
của ông N phải thực hiện đối với ông B trong khối di sản do ông N để lại.
Trường hợp này việc giải quyết kháng cáo của ông B đòi hỏi phải xem xét đồng thời phần bản án về
chia di sản thừa kế của ông N cho các thừa kế theo đúng quy định của Bộ luật dân sự là người hưởng
thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại.
2. Về Điều 266 của BLTTDS
2.1. Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm phải
hoãn phiên toà. Trường hợp không xác định được người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính
đáng hay không có lý do chính đáng, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm cũng hoãn phiên toà.
Trường hợp người kháng cáo đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên
toà, thì bị coi là từ bỏ việc kháng cáo và Hội đồng xét xử phúc thẩm ra quyết định đình chỉ xét
xử phúc thẩm vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt (nếu trong vụ án không có người kháng
cáo khác). Trường hợp có nhiều người kháng cáo mà có người kháng cáo thuộc trường hợp quy định tại
khoản 2 Điều 266 của BLTTDS, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm tiến hành xét xử phúc thẩm vụ án theo thủ
tục chung đối với kháng cáo của những người kháng cáo có mặt tại phiên toà. Đối với phần vụ án
có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm đình chỉ xét xử phúc thẩm
mà không phải ra quyết định riêng bằng văn bản, nhưng phải ghi rõ quyết định này trong bản án, nếu
phần vụ án có kháng cáo của người kháng cáo vắng mặt không liên quan đến phần khác của bản án bị
kháng cáo, kháng nghị.
Toà án cấp phúc thẩm cũng phải hoãn phiên toà đối với người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà phúc
thẩm thuộc trường hợp hướng dẫn tại tiểu mục 1.2 mục 1 Phần III của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP
ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần
thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm" của BLTTDS.
2.2. Đối với người tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt tại phiên toà, thì
việc hoãn phiên toà hay vẫn tiến hành xét xử phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại các điều
199, 200, 201, 202, 203, 204, 205 và 206 của BLTTDS và hướng dẫn tại các mục 1 và 2 Phần III của Nghị quyết
số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các
quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm" của BLTTDS. Người tham
gia tố tụng khác phải là người liên quan đến kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại Điều 263 của BLTTDS,
thì Toà án cấp phúc thẩm mới xem xét việc hoãn phiên toà. Nếu họ không có liên quan đến việc xét xử
phúc thẩm (quyền lợi, nghĩa vụ của họ độc lập với việc xem xét kháng cáo, kháng nghị) thì Toà án
cấp phúc thẩm không phải xem xét việc hoãn phiên toà.
2.3. Trường hợp Hội đồng xét xử phúc thẩm hoãn phiên toà phúc thẩm, thì thời hạn hoãn phiên toà và
quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm được thực hiện theo quy định tại Điều 208 của BLTTDS và hướng
dẫn tại mục 3 Phần III của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 nêu trên của Hội đồng Thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao.
3. Về Điều 267 của BLTTDS
Việc chuẩn bị khai mạc phiên toà phúc thẩm và thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm cũng được thực
hiện theo quy định tại các điều 212, 213, 214, 215 và 216 của BLTTDS. Do đó, khi chuẩn bị khai mạc phiên toà
phúc thẩm và tiến hành thủ tục bắt đầu phiên toà phúc thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm phải thi
hành đúng các quy định tại các điều luật nêu trên của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 5 Phần III của
Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
4. Về Điều 269 của BLTTDS
4.1. Việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn trước khi mở phiên toà phải được làm thành văn bản. Việc
rút đơn khởi kiện của nguyên đơn tại phiên toà không phải làm thành văn bản, nhưng phải ghi vào biên
bản phiên toà.
4.2. Trong thời hạn nguyên đơn có quyền kháng cáo, nếu nguyên đơn rút đơn khởi kiện, thì Toà án cấp sơ
thẩm cần phải giải thích cho họ biết hậu quả của việc bị đơn không đồng ý để họ quyết định
việc kháng cáo hoặc rút đơn khởi kiện.
Trường hợp nguyên đơn vẫn quyết định rút đơn khởi kiện thì Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo bằng
văn bản cho bị đơn biết và yêu cầu bị đơn phải trả lời bằng văn bản cho Toà án cấp sơ thẩm về
việc họ có đồng ý hay không đồng ý trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông
báo của Toà án. Tuỳ thuộc vào kết quả trả lời của bị đơn mà giải quyết như sau:
a) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn không đồng ý việc rút
đơn khởi kiện của nguyên đơn và trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị không có đương sự nào kháng cáo,
Viện kiểm sát không kháng nghị, thì việc rút đơn khởi kiện của nguyên đơn đương nhiên không được
chấp nhận. Trong trường hợp này bản án sơ thẩm được coi là không bị kháng cáo, kháng nghị và có hiệu
lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
b) Trường hợp Toà án cấp sơ thẩm nhận được văn bản trả lời của bị đơn đồng ý việc rút đơn
khởi kiện của nguyên đơn, thì không phân biệt trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị có đương sự nào
kháng cáo hoặc Viện kiểm sát kháng nghị hay không, Toà án cấp sơ thẩm đều phải gửi hồ sơ vụ án và
kháng cáo, kháng nghị, văn bản rút đơn khởi kiện cho Toà án cấp phúc thẩm để Toà án cấp phúc thẩm
căn cứ vào Điều 269 của BLTTDS mở phiên toà giải quyết vụ án theo thủ tục chung.
4.3. Trường hợp đương sự có kháng cáo (bao gồm cả nguyên đơn) hoặc Viện kiểm sát có kháng nghị, nhưng
trước khi mở phiên toà hoặc tại phiên toà phúc thẩm nguyên đơn rút đơn khởi kiện, thì Toà án cấp phúc
thẩm giải quyết vụ án theo quy định tại khoản 1 Điều 269 của BLTTDS.
4.4. Khi Toà án cấp phúc thẩm ra quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ theo quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 269 của BLTTDS, thì căn cứ vào quyết định của Toà án cấp sơ thẩm về án
phí trong bản án sơ thẩm bị huỷ, Toà án cấp phúc thẩm quyết định đương sự nào phải chịu án phí
và mức án phí sơ thẩm. Đối với trường hợp này các đương sự còn phải chịu một nửa án phí phúc
thẩm.
5. Về Điều 270 của BLTTDS
5.1. Trường hợp trước khi mở phiên toà phúc thẩm, các đương sự đã tự thoả thuận được với nhau về
việc giải quyết vụ án và các đương sự yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của
họ, thì Tòa án yêu cầu các đương sự làm văn bản ghi rõ nội dung thỏa thuận và nộp cho Tòa án cấp
phúc thẩm để đưa vào hồ sơ vụ án. Văn bản này được coi như chứng cứ mới bổ sung. Tại phiên toà
phúc thẩm Hội đồng xét xử phúc thẩm phải hỏi lại các đương sự về thỏa thuận của họ là có tự
nguyện hay không và xem xét thoả thuận đó có trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội hay không; nếu thoả
thuận của họ là tự nguyện, không trái pháp luật, đạo đức xã hội, thì Hội đồng xét xử vào phòng
nghị án thảo luận và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thỏa thuận của các đương
sự.
5.2. Tại phiên toà phúc thẩm nếu các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án
thì thoả thuận này phải được ghi vào biên bản phiên toà. Nếu xét thấy thoả thuận của các đương sự
là tự nguyện không trái pháp luật hoặc đạo đức xã hội, thì Hội đồng xét xử vào phòng nghị án thảo
luận và ra bản án phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm, công nhận sự thoả thuận của các đương sự.
5.3. Trong các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 và 5.2 mục 5 này, Hội đồng xét xử cần
hướng dẫn cho các đương sự thoả thuận về trách nhiệm chịu án phí sơ thẩm; nếu họ không thoả thuận
được, thì Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định theo quy định của pháp luật về án phí.
6. Về Điều 281 của BLTTDS
6.1. Toà án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho người đã kháng cáo, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị hoặc người đại diện hợp pháp của họ và
các chủ thể khác theo đúng quy định tại Điều 281 của BLTTDS.
6.2. Trường hợp phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho một trong những người được hướng dẫn
tại tiểu mục 6.1 mục 6 này mà họ là người nước ngoài thì Toà án phải dịch bản án, quyết định đó
sang tiếng nước ngoài, nếu điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên
có quy định.
Trường hợp đương sự là người nước ngoài là công dân của nước chưa ký kết điều ước quốc tế
với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhưng nước đó và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam đã áp
dụng nguyên tắc có đi, có lại thì áp dụng nguyên tắc có đi, có lại.
IV. CÁC MẪU VĂN BẢN TỐ TỤNG
1. Ban hành kèm theo Nghị quyết này các mẫu văn bản tố tụng sau đây:
1.1. Đơn kháng cáo (mẫu số 01)
1.2. Giấy báo nhận đơn kháng cáo (mẫu số 02)
1.3. Thông báo về việc sửa đổi, bổ sung đơn kháng cáo (mẫu số 03)
1.4. Thông báo về việc trình bày lý do kháng cáo quá hạn (mẫu số 04)
1.5. Thông báo trả lại đơn kháng cáo (mẫu số 05)
1.6. Quyết định chấp nhận việc kháng cáo quá hạn (mẫu số 06)
1.7. Quyết định không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn (mẫu số 07)
1.8. Thông báo nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm (mẫu số 08)
1.9. Thông báo về việc kháng cáo (mẫu số 09)
1.10. Thông báo về việc sửa đổi, bổ sung kháng cáo (kháng nghị) (mẫu số 10)
1.11. Thông báo về việc rút kháng cáo (kháng nghị) (mẫu số 11)
1.12. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm (mẫu số 12)
1.13. Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 13)
1.14. Quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 14)
1.15. Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 15)
1.16. Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án dân sự (mẫu số 16)
1.17. Quyết định huỷ bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án dân sự (mẫu số 17)
1.18. Quyết định giải quyết việc kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định tạm đình chỉ (đình chỉ)
giải quyết vụ án (mẫu số 18)
1.19. Biên bản phiên toà phúc thẩm (mẫu số 19)
1.20. Quyết định hoãn phiên toà phúc thẩm (mẫu số 20)
1.21. Bản án phúc thẩm (mẫu số 21)
1.22. Thông báo sửa chữa, bổ sung bản án phúc thẩm (mẫu số 22)
2. Mẫu văn bản tố tụng ban hành kèm theo Nghị quyết này chỉ hướng dẫn về nội dung để Toà án ban hành
văn bản tố tụng tương ứng trong quá trình giải quyết vụ án. Khi ban hành các văn bản tố tụng cụ thể,
Toà án phải thực hiện đúng nội dung và hướng dẫn sử dụng mẫu ban hành kèm theo Nghị quyết, thực hiện
đúng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06-5-2005 của Bộ Nội vụ - Văn phòng
Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản, như: văn bản phải được trình bày
trên giấy khổ A4 (210 mm x 297 mm), về khổ chữ, về hình thức văn bản...
3. Trong quá trình sử dụng mẫu văn bản tố tụng, nếu cần sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mẫu văn bản
tố tụng mới thì báo cáo cho Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.
Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao giao cho Viện khoa học xét xử Toà án nhân dân tối cao nghiên
cứu, soạn thảo mẫu văn bản tố tụng sửa đổi, bổ sung hoặc mẫu văn bản tố tụng mới trình Chánh
án Toà án nhân dân tối cao ký ban hành.
V. HIỆU LỰC THI HÀNH CỦA NGHỊ QUYẾT
Nghị quyết này đã được Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua ngày 04 tháng 8 năm 2006
và có hiệu lực thi hành sau mười lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo./.