NGHỊ QUYẾT
Hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố tụng hành chính
_____________________
Căn cứ Luật tổ chức Toà án nhân dân;
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Luật tố tụng hành chính
(sau đây viết tắt là Luật TTHC);
Sau khi có ý kiến thống nhất của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao và
Bộ trưởng Bộ Tư pháp,
QUYẾT NGHỊ:
Chương I
VỀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính
quy định tại Điều 28 của Luật TTHC
1. Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải
quyết vụ án hành chính là văn bản được thể hiện dưới hình thức quyết định
hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết luận, công văn do cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong các cơ
quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết định hành chính được
áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể trong
hoạt động quản lý hành chính mà người khởi kiện cho rằng quyền, lợi ích hợp
pháp của mình bị xâm phạm (trừ những văn bản thông báo của cơ quan, tổ chức
hoặc người có thẩm quyền của cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu cá nhân, cơ quan,
tổ chức bổ sung, cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc giải quyết, xử lý
vụ việc cụ thể theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó), bao gồm:
a) Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý
những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;
b) Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính được hướng dẫn tại điểm a khoản
này.
2. Hành vi hành chính thuộc đối tượng khởi kiện để yêu cầu Toà án giải
quyết vụ án hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước,
cơ quan, tổ chức khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện
hoặc không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật. Việc xác định
hành vi hành chính khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức khác, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính
nhà nước, cơ quan, tổ chức khác và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ,
công vụ phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện
đối với nhiệm vụ, công vụ đó và phân biệt như sau:
a) Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là
của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng do người trong cơ quan
hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện theo sự phân công
hoặc uỷ quyền, uỷ nhiệm thì hành vi đó là hành vi hành chính của cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác mà không phải là hành
vi hành chính của người đã thực hiện hành vi hành chính đó;
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 126 của Luật đất đai thì hồ sơ chuyển đổi quyền sử dụng
đất nộp tại Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Ông Nguyễn Văn A đã nộp hồ
sơ xin chuyển đổi quyền sử dụng đất tại Ủy ban nhân dân xã X theo đúng quy định,
nhưng bà Trần Thị C là cán bộ nhận hồ sơ của Ủy ban nhân dân xã X đã
trả lại hồ sơ cho ông A và không nêu lý do của việc trả lại hồ sơ đó. Trong
trường hợp này, việc trả lại hồ sơ cho ông A là hành vi hành chính của Ủy
ban nhân dân xã X mà không phải là hành vi hành chính của bà
Trần Thị C.
b) Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
thì việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể đó là hành vi hành chính
của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ trực tiếp thực hiện hay phân
công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho người khác thực hiện;
Ví dụ: Theo quy định của pháp luật thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H là
người có thẩm quyền tổ chức việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai đối với ông D, nhưng đã ủy nhiệm cho Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân xã H trực tiếp tổ chức việc cưỡng chế. Trong trường hợp này, việc cưỡng
chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với ông D là hành
vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H mà không phải là hành
vi hành chính của Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã H.
c) Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là
của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng hết thời hạn theo quy
định của pháp luật mà cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công
vụ đó là hành vi hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức khác, không phụ thuộc vào việc nhiệm vụ, công vụ đó được phân
công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho người cụ thể nào trong cơ quan hành chính nhà nước,
cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện;
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 7 của Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29-8-2006 của Chính
phủ về đăng ký kinh doanh thì Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu
tư tỉnh A có thẩm quyền cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho các doanh nghiệp được
thành lập trong địa giới hành chính tỉnh. Doanh nghiệp N đã nộp đầy đủ hồ sơ đăng
ký kinh doanh hợp lệ, nhưng quá thời hạn mà pháp luật quy định, Phòng đăng ký
kinh doanh không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp N. Trong trường hợp này,
việc không cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp N là hành vi hành
chính của Phòng đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh A.
d) Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể là
của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác,
nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà người có thẩm quyền trong cơ quan hành
chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì
hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó là hành vi hành chính
của người có thẩm quyền, không phụ thuộc vào việc họ đã phân công, uỷ
quyền, uỷ nhiệm cho người khác thực hiện.
Ví dụ: Theo quy định tại Điều 30 của Luật cư trú thì trong thời hạn 03 ngày làm
việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ theo quy định, Trưởng Công an xã, phường, thị trấn
phải cấp sổ tạm trú cho hộ gia đình hoặc cá nhân đề nghị. Bà X đã nộp
đủ giấy tờ theo quy định đề nghị Trưởng Công an xã N cấp sổ tạm trú, nhưng quá
thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ mà Trưởng Công an xã
N không cấp sổ tạm trú cho bà X. Trong trường hợp này, việc không cấp sổ tạm
trú cho bà X là hành vi hành chính của Trưởng Công an xã N.
3. Quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh thuộc đối tượng
khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết vụ án hành chính là quyết
định của Hội đồng cạnh tranh, của Bộ trưởng Bộ Công thương khi giải quyết khiếu nại quyết
định xử lý vụ việc cạnh tranh theo quy định tại mục 7 Chương V của Luật cạnh tranh, bao gồm:
a) Quyết định giải quyết khiếu nại của Hội đồng cạnh tranh đối với quyết định của Hội đồng
xử lý vụ việc cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi hạn chế
cạnh tranh;
b) Quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng Bộ Công thương đối với quyết định của Thủ
trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh khi xử lý vụ việc cạnh tranh liên quan đến hành vi
cạnh tranh không lành mạnh.
Điều 2. Xác định người bị kiện quy định tại khoản 7 Điều 3 của Luật TTHC
1. Theo quy định tại khoản 7 Điều 3 của Luật TTHC thì người bị kiện là cá nhân, cơ
quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ
luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh
tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện; do đó, để xác định đúng người bị kiện khi
nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức thì phải căn cứ vào
quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó. Trường hợp có nhiều
luật cùng quy định thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành
chính về một lĩnh vực quản lý thì việc xác định thẩm quyền của người bị kiện
khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức phải căn cứ vào luật
chuyên ngành.
Ví dụ: Có hai quyết định hành chính bị khởi kiện và hai quyết định hành
chính này đều do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện ký (một quyết định về
xử phạt vi phạm hành chính và một quyết định thu hồi đất của hộ gia đình). Căn
cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết các vụ việc này thì
người bị kiện trong vụ án hành chính về khiếu kiện quyết định xử phạt vi phạm hành
chính là cá nhân Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện (Điều 29 của Pháp
lệnh xử lý vi phạm hành chính), còn người bị kiện trong vụ án hành chính
về khiếu kiện quyết định thu hồi đất của hộ gia đình là Uỷ ban nhân dân cấp huyện
(Điều 44 của Luật đất đai).
2. Người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 3 của Luật TTHC là người có chức vụ, chức danh
cụ thể và theo quy định của pháp luật thì người có chức vụ, chức danh đó
mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính.
Trường hợp quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính do một người cụ thể
ký hoặc thực hiện, nhưng người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện
hành vi hành chính với danh nghĩa một chức vụ, chức danh có thẩm quyền thì quyết
định hành chính, hành vi hành chính đó là của người đảm nhiệm chức
vụ, chức danh đó.
Ví dụ: Quyết định hành chính do ông Nguyễn Văn A ký với danh nghĩa Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân huyện B thì gọi là quyết định hành chính của Chủ tịch Uỷ ban
nhân dân huyện B mà không gọi là quyết định hành chính của ông Nguyễn
Văn A.
Điều 3. Giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong vụ án hành chính quy định tại Điều
6 của Luật TTHC
1. Theo quy định tại đoạn 1 Điều 6 của Luật TTHC thì người khởi kiện, người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan trong vụ án hành chính có thể đồng thời yêu cầu bồi thường
thiệt hại. Thiệt hại trong trường hợp này là thiệt hại thực tế do có quyết định hành
chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh gây ra. Trường hợp người khởi
kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu bồi thường thiệt hại thì
có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Trường hợp cần thiết Toà án có thể thu thập thêm
chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được chính xác.
2. Khi giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại cần phân biệt như sau:
a) Trường hợp Toà án giải quyết cả phần yêu cầu bồi thường thiệt hại cùng với
việc giải quyết vụ án hành chính mà phần quyết định của bản án về bồi thường
thiệt hại bị kháng cáo hoặc kháng nghị hoặc bị Toà án cấp phúc thẩm,
giám đốc thẩm hoặc tái thẩm huỷ để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại thì
phần quyết định về bồi thường thiệt hại trong các trường hợp này là một phần của
vụ án hành chính. Thủ tục giải quyết đối với phần quyết định về bồi thường thiệt
hại bị kháng cáo, kháng nghị hoặc bị huỷ để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm
lại được thực hiện theo quy định của Luật TTHC;
Ví dụ: Trường hợp chỉ có phần quyết định của bản án hành chính sơ thẩm của
Toà án nhân dân huyện N, tỉnh P về bồi thường thiệt hại bị kháng cáo thì
Toà hành chính Toà án nhân dân tỉnh P sẽ thụ lý giải quyết theo thủ
tục tố tụng hành chính; trường hợp phần quyết định của bản án hành chính
sơ thẩm của Toà án nhân dân huyện N, tỉnh P về bồi thường thiệt hại bị Toà
án nhân dân tỉnh P huỷ để xét xử sơ thẩm lại thì Toà án nhân dân
huyện N sẽ thụ lý và xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục tố tụng hành chính.
b) Trường hợp Toà án tách phần giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải
quyết sau bằng một vụ án dân sự khác thì thủ tục giải quyết được thực hiện theo
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Điều 4. Trường hợp cần thiết Toà án cấp tỉnh có thể lấy lên để giải quyết khiếu kiện
thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án cấp huyện quy định tại điểm g khoản 1 Điều 30 của
Luật TTHC
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân
cấp huyện, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp.
2. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính thuộc thẩm quyền giải
quyết của Toà án cấp huyện mà các Thẩm phán của Toà án cấp huyện
đó đều thuộc trường hợp phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi.
3. Vụ án có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư
pháp cho cơ quan đại diện ngoại giao của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ở nước
ngoài hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài.
Điều 5. Xác định thẩm quyền trong trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện
quy định tại Điều 31 của Luật TTHC
1. Trường hợp người khởi kiện có đơn khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại thì Toà án phải yêu cầu người khởi kiện làm văn bản lựa chọn cơ quan giải
quyết; trường hợp người khởi kiện không làm được văn bản lựa chọn thì Toà án phải lập biên bản về việc người khởi kiện lựa chọn cơ quan giải quyết.
2. Trường hợp quyết định hành chính, hành vi hành chính chỉ có liên quan
đến một người mà người đó vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà
án có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải
quyết khiếu nại thì việc giải quyết theo sự lựa chọn của người khởi kiện. Trường hợp người
khởi kiện lựa chọn Toà án giải quyết thì Toà án thụ lý giải quyết vụ
án theo thủ tục chung, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại biết và yêu cầu chuyển toàn bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu
có). Trường hợp người khởi kiện lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải
quyết thì Toà án căn cứ vào điểm g khoản 1 Điều 109 của Luật TTHC trả lại đơn
khởi kiện và các tài liệu kèm theo cho người khởi kiện. Nếu hết thời hạn giải
quyết khiếu nại mà khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng
người khiếu nại không đồng ý với việc giải quyết khiếu nại và có đơn khởi kiện
vụ án hành chính thì Toà án xem xét để tiến hành thụ lý vụ
án theo thủ tục chung.
3. Trường hợp quyết định hành chính, hành vi hành chính có liên quan đến
nhiều người thì phân biệt như sau:
a) Trường hợp chỉ có một người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, những người khác còn lại không khởi kiện vụ án hành chính và
cũng không khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì thẩm quyền giải
quyết được thực hiện như trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này;
b) Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại và tất cả những người này đều lựa chọn một trong hai cơ quan có thẩm quyền giải
quyết (Toà án hoặc người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại) thì thẩm quyền giải
quyết được thực hiện như trường hợp được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này;
c) Trường hợp có nhiều người vừa khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
có thẩm quyền, đồng thời có đơn khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu
nại, trong đó có một hoặc một số người lựa chọn Toà án giải quyết và một
hoặc một số người lựa chọn người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết hoặc trường
hợp chỉ có một hoặc một số người khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án
có thẩm quyền, một hoặc một số người khác chỉ khiếu nại đến người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại thì phân biệt như sau:
c.1) Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại độc lập với nhau
thì việc giải quyết yêu cầu của người khởi kiện thuộc thẩm quyền của Toà án,
còn việc giải quyết khiếu nại của những người khiếu nại thuộc thẩm quyền của người có
thẩm quyền giải quyết khiếu nại. Trong trường hợp này, Toà án thụ lý giải quyết
đối với yêu cầu của người khởi kiện, đồng thời thông báo cho người có thẩm quyền
giải quyết khiếu nại biết về việc Toà án đã thụ lý giải quyết đối với yêu
cầu của người khởi kiện;
c.2) Trường hợp quyền lợi, nghĩa vụ của người khởi kiện và người khiếu nại không độc lập
với nhau thì Toà án thụ lý giải quyết vụ án theo thủ tục chung, đồng thời thông
báo cho người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại biết và yêu cầu chuyển toàn
bộ hồ sơ giải quyết khiếu nại cho Toà án (nếu có).
Điều 6. Giải quyết trường hợp Toà án đã thụ lý vụ án hành chính nhưng sau
đó phát hiện đây là vụ án khác hoặc thuộc thẩm quyền của Toà án khác
1. Trong quá trình giải quyết vụ án hành chính theo thủ tục sơ thẩm, Toà án phát hiện đây không phải là vụ án hành chính mà
là vụ án khác (dân sự, kinh tế, lao động) và việc giải quyết vụ án này
là thuộc thẩm quyền của mình thì Toà án giải quyết lại vụ án theo thủ
tục chung do pháp luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó, đồng thời
thông báo cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp biết.
2. Trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà phát
hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của Toà án khác thì
Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án hành chính căn cứ vào khoản
1 Điều 32 của Luật TTHC xoá sổ thụ lý, chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án có
thẩm quyền, đồng thời thông báo cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng
cấp biết.
3. Sau khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục sơ thẩm mà phát
hiện việc giải quyết vụ án này là thuộc thẩm quyền của Toà án khác thì
Toà án phải mở phiên toà và tại phiên toà Hội đồng xét xử vận
dụng khoản 3 Điều 139 của Luật TTHC ra quyết định đình chỉ việc xét xử, chuyển hồ sơ vụ
án cho Toà án có thẩm quyền.
4. Khi xét xử phúc thẩm vụ án hành chính mà phát hiện vụ án thuộc
trường hợp được hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì Toà án cấp
phúc thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 205 của Luật TTHC huỷ bản án, quyết định sơ thẩm
do vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp
luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó.
5. Khi xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm vụ án hành chính mà phát
hiện vụ án thuộc trường hợp được hướng dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này thì
Toà án cấp giám đốc thẩm hoặc tái thẩm căn cứ vào khoản 3 Điều 225 hoặc khoản
2 Điều 237 của Luật TTHC huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật do vi
phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và giao hồ sơ vụ án cho Toà án có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại vụ án theo thủ tục chung do pháp
luật tố tụng quy định đối với việc giải quyết vụ án đó.
Điều 7. Nhập hoặc tách vụ án hành chính quy định tại Điều 33 của Luật TTHC
1. Toà án có thể nhập hai hay nhiều vụ án hành chính đã thụ lý
riêng biệt để giải quyết bằng một vụ án hành chính khi có đủ các điều
kiện sau đây:
a) Các vụ án thụ lý riêng biệt chỉ có một người khởi kiện đối với nhiều
quyết định hành chính, hành vi hành chính đều do một cơ quan, tổ chức hoặc một
người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức ban hành, thực hiện và có mối liên
hệ mật thiết với nhau hoặc các vụ án thụ lý riêng biệt có nhiều người khởi
kiện đối với cùng một quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính;
Ví dụ 1: Ông Nguyễn Văn A khởi kiện đối với quyết định thu hồi đất và quyết định
phê duyệt phương án bồi thường khi thu hồi đất của ông A. Cả hai quyết định này
đều do Uỷ ban nhân dân huyện B ban hành. Toà án nhân dân huyện B đã
thụ lý thành hai vụ án hành chính khác nhau.
Ví dụ 2: Chủ tịch Uỷ ban nhân dân quận H ra một quyết định xử phạt vi phạm hành chính
về quản lý đất đai đối với ông Nguyễn Văn B và bà Trần Thị C. Cả ông B và
bà C đều đã khởi kiện vụ án hành chính mà Toà án đã thụ
lý bằng hai vụ án khác nhau.
b) Việc nhập hai hay nhiều vụ án hành chính thành một vụ án hành chính
phải bảo đảm việc xét xử được nhanh chóng, hiệu quả, triệt để và không vi phạm
thời hạn chuẩn bị xét xử.
2. Toà án có thể tách một vụ án hành chính đã thụ lý thành
nhiều vụ án hành chính khác nhau trong trường hợp quyết định hành chính bị
khởi kiện liên quan đến nhiều người khởi kiện và quyền lợi, nghĩa vụ của những người khởi
kiện đó không liên quan với nhau.
Ví dụ: Uỷ ban nhân dân quận N ra quyết định thu hồi đất đối với hai hộ dân ở phường
X, trong đó xác định cụ thể diện tích đất thu hồi của từng hộ dân. Cả hai hộ
dân bị thu hồi đất đều khởi kiện tại Toà án nhân dân quận N và Toà
án đã thụ lý thành một vụ án hành chính. Trường hợp này quyền
lợi, nghĩa vụ của hai hộ dân trên là độc lập, không liên quan với nhau. Vì
vậy, Toà án có thể tách vụ án trên thành hai vụ án hành chính
khác nhau.
Điều 8. Trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng do là người thân
thích của đương sự hoặc có căn cứ cho rằng họ không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ quy định tại khoản 1 và khoản 8 Điều 41 của Luật TTHC
1. Người thân thích của đương sự là người có quan hệ sau đây với đương sự:
a) Là vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của đương sự;
b) Là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của đương
sự;
c) Là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của đương sự;
d) Là cháu ruột của đương sự mà đương sự là ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
2. Có căn cứ rõ ràng cho rằng họ có thể không vô tư trong khi làm nhiệm
vụ là ngoài các trường hợp được quy định tại các khoản từ khoản 1 đến khoản
7 Điều 41 của Luật TTHC thì trong các trường hợp khác (như trong quan hệ tình cảm, quan
hệ thông gia, quan hệ công tác, quan hệ kinh tế…) có căn cứ rõ ràng để
có thể khẳng định là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên, Thư
ký Toà án không vô tư trong khi làm nhiệm vụ. Ví dụ: Hội thẩm nhân
dân là anh em kết nghĩa của người khởi kiện; Thẩm phán là con rể của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan…
Cũng được coi là có căn cứ rõ ràng để cho rằng họ có thể không vô
tư trong khi làm nhiệm vụ nếu trong cùng một phiên toà xét xử vụ án hành
chính, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và Thư ký Toà
án là người thân thích với nhau hoặc nếu Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
Kiểm sát viên được phân công xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
có người thân thích là Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên
đã tham gia xét xử sơ thẩm, phúc thẩm vụ án đó.
Điều 9. Thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân quy định tại Điều 42 của Luật TTHC
1. Theo quy định tại khoản 2 Điều 42 của Luật TTHC thì Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong trường hợp là người thân thích
với thành viên khác trong Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, khi có hai người trong
Hội đồng xét xử thân thích với nhau thì chỉ có một người phải từ chối hoặc
bị thay đổi. Việc thay đổi ai trước khi mở phiên toà do Chánh án Toà án quyết
định, tại phiên toà do Hội đồng xét xử quyết định. Việc xác định Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân trong cùng một Hội đồng xét xử là người thân thích
với nhau được thực hiện tương tự theo hướng dẫn tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết này.
2. Theo quy định tại khoản 3 Điều 42 của Luật TTHC, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân phải từ
chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi trong trường hợp đã tham gia xét xử sơ thẩm,
phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó. “Đã tham gia xét
xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm vụ án đó” là
đã tham gia giải quyết vụ án và đã ra bản án sơ thẩm, bản án phúc
thẩm, quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm, quyết định đình chỉ việc giải quyết
vụ án (trừ trường hợp là thành viên của Hội đồng Thẩm phán Toà án
nhân dân tối cao, Ủy ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh được tham gia xét xử nhiều
lần cùng một vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm).
Điều 10. Trường hợp người bị kiện sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định bị khởi kiện quy định tại khoản
3 Điều 51 của Luật TTHC
Theo quy định tại khoản 3 Điều 51 của Luật TTHC thì trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính người bị kiện có quyền sửa đổi hoặc hủy bỏ quyết định hành chính,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý
vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện; do đó, trong quá trình giải quyết
vụ án hành chính mà người bị kiện có quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết
định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị khởi kiện thì Toà
án thông báo cho người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập biết và phân biệt như sau:
1. Nếu người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
đều rút đơn khởi kiện, yêu cầu thì Toà án căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều
120 của Luật TTHC ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án;
2. Nếu người khởi kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập
đều không rút đơn khởi kiện, yêu cầu thì Toà án tiếp tục giải quyết vụ
án theo thủ tục chung. Trong trường hợp này Toà án phải xem xét tính hợp pháp
của quyết định bị khởi kiện và quyết định sửa đổi hoặc huỷ bỏ quyết định bị khởi kiện
để tuỳ vào từng trường hợp cụ thể mà có quyết định đúng pháp luật;
3. Nếu người khởi kiện rút đơn khởi kiện, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập không rút yêu cầu thì Toà án đình chỉ
việc giải quyết đối với yêu cầu của người khởi kiện và tiếp tục giải quyết đối với
yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Trong trường hợp này,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trở thành người khởi kiện;
4. Nếu người khởi kiện không rút đơn khởi kiện, nhưng người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan có yêu cầu độc lập rút yêu cầu thì Toà án đình chỉ việc
giải quyết đối với yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và tiếp
tục giải quyết đối với yêu cầu của người khởi kiện theo thủ tục chung.
Điều 11. Việc dẫn giải người làm chứng, nghĩa vụ cam đoan của người làm chứng, việc từ chối khai
báo của người làm chứng quy định tại Điều 56 của Luật TTHC
1. Hội đồng xét xử có thể ra quyết định dẫn giải người làm chứng đến phiên toà
khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người làm chứng đã được triệu tập hợp lệ nhưng không đến phiên toà mà
không có lý do chính đáng;
b) Việc vắng mặt của người làm chứng tại phiên toà gây trở ngại cho việc xét
xử vụ án;
c) Việc dẫn giải người làm chứng đến phiên toà có thể thực hiện được trước khi
tranh luận.
Quyết định dẫn giải người làm chứng phải được giao ngay cho lực lượng Cảnh sát bảo vệ
và hỗ trợ tư pháp thuộc Công an nhân dân có thẩm quyền để thực hiện theo
quy định tại Thông tư số 15/2003/TT-BCA(V19) ngày 10-9-2003 của Bộ Công an “hướng dẫn hoạt
động hỗ trợ tư pháp của lực lượng Cảnh sát bảo vệ và hỗ trợ tư pháp thuộc
Công an nhân dân”.
2. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên toà, Thẩm phán hoặc Hội đồng
xét xử yêu cầu người làm chứng phải cam đoan trước Toà án về việc thực hiện
quyền, nghĩa vụ của họ, trừ trường hợp người làm chứng là người chưa thành niên.
Cam đoan của người làm chứng có các nội dung sau đây:
a) Cam đoan đã được Toà án giải thích rõ về quyền, nghĩa vụ của người làm
chứng;
b) Cam đoan khai báo trung thực trước Toà án;
c) Cam đoan xin chịu hoàn toàn trách nhiệm trước pháp luật về lời khai của mình.
Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, cam đoan của người làm chứng được ghi vào biên bản lấy lời khai của người làm chứng;
tại phiên toà, cam đoan của người làm chứng được ghi vào biên bản phiên toà.
3. Người làm chứng được từ chối khai báo nếu lời khai của mình liên quan đến bí
mật nhà nước, bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân hoặc
việc khai báo đó có ảnh hưởng xấu, bất lợi cho đương sự là người có quan
hệ thân thích với mình. Trong trường hợp này, Thẩm phán phải giải thích cho
họ biết nếu việc từ chối khai báo không có căn cứ thì họ phải chịu trách nhiệm
theo quy định của pháp luật.
a) Liên quan đến bí mật nhà nước là liên quan đến những vấn đề (thông tin,
tin tức, nội dung…) trong các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền được pháp luật quy định là có các mức độ: “Tuyệt mật”,
“Tối mật” hoặc “Mật”;
b) Liên quan đến bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân là
liên quan đến bí mật nghề nghiệp, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân được
pháp luật bảo vệ của chính người làm chứng;
c) Có ảnh hưởng xấu cho đương sự trong vụ án là người có quan hệ thân thích
với mình là trường hợp nếu người làm chứng khai ra những điều mình biết thì
ảnh hưởng xấu đến hạnh phúc, danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc ảnh hưởng xấu khác
trong cuộc sống, công tác, sản xuất, kinh doanh của đương sự là người có quan hệ thân
thích với người làm chứng.
Việc xác định người thân thích của người làm chứng được thực hiện tương tự như
hướng dẫn tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết này.
Chương II
VỀ KHỞI KIỆN VÀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC SƠ THẨM
Điều 12. Thời hiệu khởi kiện quy định tại Điều 104 của Luật TTHC
1. Theo quy định tại điểm a khoản 2 Điều 104 của Luật TTHC thì thời hiệu khởi kiện đối với quyết
định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc là
01 năm, kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc; do đó, để xác định thời điểm bắt
đầu tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp nào là “kể từ ngày nhận được”,
trường hợp nào là “kể từ ngày biết được” thì cần căn cứ vào đối
tượng bị tác động trực tiếp của quyết định hành chính, hành vi hành chính,
quyết định kỷ luật buộc thôi việc và phân biệt như sau:
a) Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị tác động trực tiếp bởi quyết định hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ là đối tượng được nhận quyết
định thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ ngày họ nhận
được quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc (được cơ quan, người
có thẩm quyền ra quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc giao trực
tiếp, được nhận qua nhân viên bưu điện, qua chính quyền địa phương hoặc những người
khác theo quy định của pháp luật). Ví dụ: Ngày 08-7-2011 ông N nhận được Quyết
định số 19/QĐ-UBND ngày 10-02-2011 của Uỷ ban nhân dân quận B về việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất ở cho ông với diện tích 150m2 thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện của ông N đối với Quyết định số
19/QĐ-UBND ngày 10-02-2011 của Uỷ ban nhân dân quận B là kể từ ngày ông N nhận
được quyết định đó (ngày 08-7-2011);
b) Trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức không phải là đối tượng bị tác động
trực tiếp bởi quyết định hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc và họ
không phải là đối tượng được nhận quyết định và thực tế là họ không nhận
được quyết định đó thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể
từ ngày họ biết được quyết định đó. Ví dụ: Trong trường hợp ví dụ nêu
tại điểm a khoản 1 Điều này, sau khi được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, ông
N đã tiến hành xây tường bao diện tích đất 150m2 đó. Ông Q là hàng xóm của ông N cho rằng ông N đã xây tường bao
lên cả phần diện tích đất của ông Q. Ngày 28-7-2011, ông N đã đưa cho ông
Q xem giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông N và ông Q thấy rằng một phần diện
tích đất mà ông N được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là phần diện
tích đất của ông Q. Trong trường hợp này, thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi
kiện của ông Q đối với Quyết định số 19/QĐ-UBND ngày 10-02-2011 của Uỷ ban nhân dân
quận B là kể từ ngày ông Q biết được quyết định đó (ngày 28-7-2011);
c) Trường hợp hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc
của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy
định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là kể từ
ngày hành vi hành chính đó được thực hiện (nếu cá nhân, cơ quan, tổ
chức đã chứng kiến việc thực hiện hành vi hành chính đó) hoặc kể từ ngày
được thông báo về thời điểm hành vi hành chính đó đã được thực
hiện (nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không chứng kiến việc thực hiện hành vi hành
chính đó nhưng họ đã được cơ quan có thẩm quyền thông báo về thời điểm
hành vi hành chính đó đã được thực hiện) hoặc kể từ ngày biết được
hành vi hành chính đó (nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức không chứng kiến
việc thực hiện hành vi hành chính đó và cũng không được cơ quan có thẩm
quyền thông báo về thời điểm hành vi hành chính đó đã được thực
hiện, nhưng họ đã biết được hành vi hành chính đó qua các thông tin
khác như được người khác kể lại);
Ví dụ 1: Ngày 10-7-2011, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện tổ chức lực lượng, phương tiện
cưỡng chế tháo dỡ nhà ở xây dựng trái phép của ông H và ông H đã
chứng kiến việc tháo dỡ nhà đó thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi
kiện của ông H đối với hành vi tháo dỡ nhà ở xây dựng trái phép đó
là kể từ ngày hành vi tháo dỡ nhà ở đó được thực hiện (ngày 10-7-2011).
Ví dụ 2: Trong ví dụ 1 nêu tại điểm c này, ông T có căn nhà ở cạnh nhà
của ông H đã bị cưỡng chế tháo dỡ và trong thời gian cưỡng chế tháo dỡ nhà
ở của ông H thì ông T đi công tác nước ngoài. Ngày 15-7-2011, ông T mới
đi công tác về và thấy tường nhà mình bị rạn nứt và được hàng xóm
kể lại là nhà ông H đã bị cưỡng chế tháo dỡ. Nếu ông T khởi kiện hành
vi hành chính tháo dỡ nhà ở xây dựng trái phép đã xâm phạm
đến quyền, lợi ích hợp pháp của ông thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu
khởi kiện của ông T đối với hành vi tháo dỡ nhà ở xây dựng trái phép
đó là kể từ ngày ông T được kể lại về việc thực hiện hành vi cưỡng chế
tháo dỡ nhà ở của ông H (ngày 15-7-2011).
d) Trường hợp hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc
của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công
vụ theo quy định của pháp luật thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện là
kể từ ngày hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà cơ quan, tổ chức hoặc người
có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó không thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy
định của pháp luật.
Ví dụ: Ông A là người thành lập doanh nghiệp đã nộp đủ hồ sơ đăng ký
kinh doanh của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, nhưng hết thời hạn cấp giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh mà ông A vẫn không được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
thì thời điểm bắt đầu tính thời hiệu khởi kiện trong trường hợp này là kể từ
ngày hết thời hạn cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
2. Thời gian có sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác không tính
vào thời hiệu khởi kiện là khoảng thời gian xảy ra một trong các sự kiện sau đây:
a) Sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan như thiên tai, địch hoạ, nhu cầu chiến
đấu, phục vụ chiến đấu hoặc do lỗi của cơ quan nhà nước làm cho chủ thể có quyền
khởi kiện không thể khởi kiện trong phạm vi thời hiệu khởi kiện;
b) Chưa có người đại diện trong trường hợp người có quyền khởi kiện chưa thành niên,
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự;
c) Chưa có người đại diện khác thay thế hoặc vì lý do chính đáng khác
mà không thể tiếp tục đại diện được trong trường hợp người đại diện của người chưa
thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự chết.
Điều 13. Sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện quy định tại Điều 105 của Luật TTHC
1. Khi nhận đơn khởi kiện hoặc sau khi nhận đơn khởi kiện, xét thấy đơn khởi kiện không đúng
quy định tại khoản 1 Điều 105 của Luật TTHC thì tùy từng trường hợp mà giải quyết như
sau:
a) Trường hợp đơn khởi kiện không có đủ các nội dung quy định tại khoản 1 Điều 105 của
Luật TTHC thì tuỳ theo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện mà Toà án yêu
cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện trong một thời hạn do Toà án ấn định,
nhưng không quá 10 ngày làm việc, kể từ ngày người khởi kiện nhận được văn
bản của Toà án yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện;
b) Trường hợp đối tượng khởi kiện ghi trong đơn là quyết định giải quyết khiếu nại mà
quyết định đó không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định
của Luật TTHC và hướng dẫn tại Điều 1 của Nghị quyết này thì Toà án giải
thích cho người khởi kiện biết là quyết định giải quyết khiếu nại đó không thuộc
đối tượng khởi kiện vụ án hành chính và yêu cầu người khởi kiện sửa đổi,
bổ sung đơn khởi kiện về đối tượng khởi kiện trong thời hạn được hướng dẫn tại điểm a khoản
này.
2. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện phải được làm bằng văn bản, trong đó phải
nêu rõ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung cho người khởi kiện biết để họ thực hiện.
Văn bản này có thể được giao trực tiếp hoặc gửi cho người khởi kiện qua bưu điện và
phải được ghi vào sổ theo dõi.
3. Thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi
kiện. Ngày khởi kiện vẫn được xác định là ngày gửi đơn khởi kiện và xác
định theo hướng dẫn tại Điều 13 của Nghị quyết này.
4. Sau khi người khởi kiện đã sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Toà án
thì Toà án tiếp tục việc thụ lý vụ án theo thủ tục chung quy định tại Điều
111 của Luật TTHC. Nếu hết thời hạn do Toà án ấn định mà người khởi kiện không
sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của Toà án thì Toà án căn cứ vào điểm
h khoản 1 Điều 109 của Luật TTHC trả lại đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo
cho họ.
Điều 14. Xác định ngày khởi kiện quy định tại Điều 106 của Luật TTHC
1. Trường hợp người khởi kiện trực tiếp nộp đơn tại Toà án theo quy định tại điểm a khoản
1 Điều 106 của Luật TTHC thì ngày khởi kiện là ngày nộp đơn.
2. Trường hợp đương sự gửi đơn đến Toà án qua bưu điện theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 106 của Luật TTHC thì ngày khởi kiện là ngày có dấu bưu điện nơi gửi.
Trường hợp không xác định được ngày, tháng, năm theo dấu bưu điện trên phong
bì thì thực hiện như sau:
a) Trường hợp ngày Toà án nhận được đơn do bưu điện chuyển đến mà thời hiệu
khởi kiện vẫn còn thì ngày khởi kiện là ngày Toà án nhận được đơn
do bưu điện chuyển đến;
b) Trường hợp ngày Toà án nhận được đơn do bưu điện chuyển đến mà thời hiệu
khởi kiện đã hết thì Toà án phải tiến hành xác minh ngày đương sự
gửi đơn tại bưu điện và phân biệt như sau:
Trường hợp xác minh được ngày đương sự gửi đơn tại bưu điện thì ngày khởi kiện
là ngày đương sự gửi đơn tại bưu điện;
Trường hợp không xác minh được ngày đương sự gửi đơn tại bưu điện thì ngày
khởi kiện là ngày ghi trong đơn khởi kiện.
3. Trường hợp vừa có đơn khiếu nại, vừa có đơn khởi kiện và người khởi kiện lựa
chọn cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại giải quyết thì ngày khởi kiện đối
với quyết định hành chính mà họ đã khiếu nại là ngày họ gửi đơn khởi
kiện đầu tiên. Trường hợp họ chỉ khởi kiện quyết định giải quyết khiếu nại có nội dung
mới thì ngày khởi kiện là ngày họ gửi đơn khởi kiện quyết định giải quyết khiếu
nại. Việc xác định ngày khởi kiện trong các trường hợp này thực hiện theo hướng
dẫn tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.
4. Trường hợp chuyển vụ án cho Toà án khác theo quy định tại khoản 1 Điều 32 và
khoản 3 Điều 139 của Luật TTHC và được hướng dẫn tại Điều 6 và Điều 18 của Nghị quyết
này thì ngày khởi kiện là ngày gửi đơn khởi kiện đến Toà án đã
thụ lý sai thẩm quyền và được xác định theo hướng dẫn tại các khoản 1, 2 và
3 Điều này.
Điều 15. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm quy định tại Điều 117 của Luật TTHC
1. Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hành chính là 04 tháng, kể từ
ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm a khoản 2 Điều 104 của Luật
TTHC; 02 tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án đối với trường hợp quy định tại điểm
b khoản 2 Điều 104 của Luật TTHC. Chỉ trong trường hợp vụ án phức tạp hoặc có trở ngại
khách quan thì thời hạn chuẩn bị xét xử tối đa không quá 06 tháng đối với
trường hợp quy định tại điểm a khoản 1 Điều 117 của Luật TTHC và không quá 03 tháng
đối với trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều 117 của Luật TTHC, kể từ ngày thụ lý
vụ án.
a) “Vụ án phức tạp” là vụ án có nhiều đương sự, có liên quan đến
nhiều lĩnh vực; vụ án có nhiều tài liệu, có các chứng cứ mâu thuẫn với
nhau cần có thêm thời gian để nghiên cứu tổng hợp các tài liệu có trong hồ
sơ vụ án hoặc tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc cần phải giám
định kỹ thuật phức tạp; những vụ án mà đương sự là người nước ngoài đang ở
nước ngoài hoặc người Việt Nam đang cư trú, học tập, làm việc ở nước ngoài…;
b) “Trở ngại khách quan” là những trở ngại được hướng dẫn tại điểm a khoản 2 Điều
12 của Nghị quyết này làm cho Toà án không thể giải quyết được vụ án trong thời hạn quy định.
Ví dụ: Toà án nhân dân huyện M, tỉnh L ở miền núi đã có quyết định
đưa vụ án ra xét xử trong đó đã ấn định ngày mở phiên toà. Tuy nhiên,
còn 02 ngày nữa là tiến hành mở phiên toà thì xảy ra lũ quét. Trụ
sở của Toà án nhân dân huyện M bị hư hỏng. Do phải khắc phục hậu quả của lũ quét,
sửa chữa lại trụ sở, nên Toà án nhân dân huyện M không thể tiến hành
phiên toà trong thời hạn quy định.
2. Trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 117 của Luật TTHC và được hướng dẫn tại khoản 1
Điều này, Thẩm phán được phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một
trong các quyết định sau đây:
a) Đưa vụ án ra xét xử;
b) Tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án;
c) Đình chỉ việc giải quyết vụ án.
3. Trường hợp có quyết định đưa vụ án ra xét xử mà phiên toà không
được mở trong thời hạn 20 ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét
xử vì có lý do chính đáng thì thời hạn này được cộng thêm tối
đa là mười ngày nữa.
“Lý do chính đáng” là các sự kiện xảy ra một cách khách quan,
không lường trước được như: cần phải có sự thay đổi, phân công lại người tiến
hành tố tụng có tên trong quyết định đưa vụ án ra xét xử mà người có
thẩm quyền chưa cử được người khác thay thế; vụ án phức tạp đã được xét xử
nhiều lần ở nhiều cấp Toà án khác nhau, nên không còn đủ Thẩm phán
để tiến hành xét xử vụ án đó mà phải chuyển vụ án cho Toà án
cấp trên xét xử hoặc phải chờ biệt phái Thẩm phán từ Toà án khác
đến… dẫn đến Toà án không thể tiến hành phiên toà trong thời hạn quy
định.
4. Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án thì thời hạn
chuẩn bị xét xử kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình chỉ. Thời hạn chuẩn
bị xét xử được bắt đầu tính lại kể từ ngày Toà án tiếp tục giải quyết
vụ án khi lý do tạm đình chỉ không còn nữa.
Điều 16. Tạm ngừng phiên toà quy định tại Điều 126 của Luật TTHC
1. Theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 126 của Luật TTHC thì trong trường hợp đặc biệt, việc
xét xử có thể tạm ngừng nhưng không quá 05 ngày làm việc. Hết thời hạn
tạm ngừng, việc xét xử vụ án được tiếp tục; do đó, trường hợp Hội đồng xét
xử quyết định tạm ngừng phiên toà thì khi việc xét xử được tiếp tục, Hội đồng
xét xử không phải tiến hành xét xử vụ án lại từ đầu. “Trường hợp đặc
biệt” để tạm ngừng việc xét xử là một trong các trường hợp sau đây:
a) Qua tranh luận hoặc qua nghị án, Hội đồng xét xử thấy cần phải xem xét thêm về
tài liệu, chứng cứ thì mới có thể giải quyết được vụ án;
b) Do sự kiện bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan mà không thể tiếp tục phiên
toà được, ví dụ: đang xét xử thì có Thẩm phán hoặc Hội thẩm nhân
dân bị đau, ốm không thể tiếp tục xét xử được mà không có Thẩm phán
hay Hội thẩm nhân dân dự khuyết đã tham gia phiên toà từ đầu thay thế;
c) Theo đề nghị của người khởi kiện, người bị kiện hoặc người tham gia tố tụng khác về việc
dừng phiên toà và Hội đồng xét xử chấp nhận tạm ngừng phiên toà mà
không thuộc trường hợp phải hoãn phiên toà theo quy định tại Điều 136 của Luật TTHC.
Ví dụ: Tại phiên toà, các bên đương sự đối thoại với nhau và đi đến nhất
trí tạm ngừng phiên toà để người bị kiện sửa đổi, bổ sung, thay thế hay hủy bỏ quyết
định hành chính, dừng hay khắc phục hành vi hành chính bị khởi kiện; hoặc để
người khởi kiện xem xét việc rút yêu cầu khởi kiện.
2. Việc tạm ngừng phiên toà phải được ghi vào biên bản phiên toà và thông
báo cho những người tham gia tố tụng biết.
Điều 17. Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm trong trường hợp đặc biệt quy định tại khoản 1 Điều
128 của Luật TTHC
Những trường hợp sau đây Hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân:
1. Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính của Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh liên quan đến nhiều đối tượng, phức tạp;
2. Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.
Điều 18. Đình chỉ xét xử sơ thẩm, chuyển vụ án cho Toà án có thẩm quyền quy định
tại khoản 3 Điều 139 của Luật TTHC
Khoản 3 Điều 139 của Luật TTHC quy định: “Trường hợp đương sự xuất trình quyết định hành
chính mới mà quyết định hành chính đó liên quan đến quyết định bị khởi
kiện và không thuộc thẩm quyền của Toà án đang xét xử sơ thẩm vụ án thì
Hội đồng xét xử đình chỉ việc xét xử và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà
án có thẩm quyền”. Quyết định hành chính mới trong trường hợp này là
quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính theo quy định
của Luật TTHC và được hướng dẫn tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết này đồng thời quyết
định đó nếu bị khởi kiện thì không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
đang xét xử sơ thẩm.
Điều 19. Áp dụng các quy định khác của Luật TTHC để giải quyết khiếu kiện về danh sách
cử tri quy định tại khoản 1 Điều 171 của Luật TTHC
“Các quy định khác của Luật này” quy định tại khoản 1 Điều 171 của Luật TTHC
là các quy định không thuộc Chương XI của Luật TTHC, nhưng việc áp dụng các quy
định khác đó không trái với quy định tại Chương XI của Luật TTHC, trừ các quy
định về hoãn phiên toà, gửi hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nghiên cứu trước
khi mở phiên toà và các quy định về thủ tục phúc thẩm.
Chương III
VỀ MỘT SỐ QUY ĐỊNH VỀ THỦ TỤC PHÚC THẨM
Điều 20. Kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm quy định tại Điều 174 của Luật TTHC
1. Đối tượng mà đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có
quyền làm đơn kháng cáo để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải
quyết lại theo thủ tục phúc thẩm bao gồm: bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình
chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm.
2. Đương sự là cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng hành chính
có thể tự mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng
cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của đương sự có kháng cáo. Đồng thời
ở phần cuối đơn kháng cáo, đương sự đó phải ký tên hoặc điểm chỉ.
3. Đương sự được hướng dẫn tại khoản 2 Điều này nếu không tự mình kháng cáo
thì có thể uỷ quyền cho người khác đại diện cho mình kháng cáo. Tại mục
tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người
đại diện theo uỷ quyền có kháng cáo; họ, tên, địa chỉ của đương sự uỷ quyền
kháng cáo và văn bản uỷ quyền. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người
đại diện theo uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
4. Đương sự là cơ quan, tổ chức có quyền kháng cáo. Người đại diện theo pháp
luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó có thể tự mình làm đơn kháng
cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong đơn phải ghi tên, địa chỉ
của đương sự là cơ quan, tổ chức; họ, tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật
của đương sự là cơ quan, tổ chức. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại
diện theo pháp luật phải ký tên và đóng dấu của cơ quan, tổ chức đó.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức uỷ quyền cho
người khác đại diện cho cơ quan, tổ chức kháng cáo thì tại mục tên, địa chỉ
của người kháng cáo trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ
quyền kháng cáo; tên, địa chỉ của đương sự là cơ quan, tổ chức uỷ quyền; họ,
tên, chức vụ của người đại diện theo pháp luật của đương sự là cơ quan, tổ chức đó
và văn bản uỷ quyền. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo, người đại diện theo uỷ
quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
5. Người đại diện theo pháp luật của đương sự là người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự có thể tự
mình làm đơn kháng cáo. Tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo
trong đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật; họ, tên, địa
chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo,
người kháng cáo phải ký tên hoặc điểm chỉ.
Trường hợp người đại diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền cho người khác đại diện
cho mình kháng cáo thì tại mục tên, địa chỉ của người kháng cáo trong
đơn phải ghi họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo uỷ quyền và văn bản uỷ quyền;
họ, tên, địa chỉ của người đại diện theo pháp luật của đương sự uỷ quyền; họ, tên,
địa chỉ của đương sự là người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Đồng thời ở phần cuối đơn kháng cáo,
người đại diện theo uỷ quyền phải ký tên hoặc điểm chỉ.
6. Việc uỷ quyền được hướng dẫn tại các khoản 3, 4 và 5 Điều này phải được làm
thành văn bản có công chứng, chứng thực hợp pháp, trừ trường hợp văn bản uỷ quyền
đó được lập tại Toà án có sự chứng kiến của Thẩm phán hoặc cán bộ
Toà án được Chánh án Toà án phân công. Trong văn bản uỷ quyền phải
có nội dung đương sự uỷ quyền cho người đại diện theo uỷ quyền kháng cáo bản án,
quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm.
Điều 21. Thay đổi, bổ sung kháng cáo, kháng nghị quy định tại Điều 188 của Luật TTHC
1. Toà án chấp nhận việc Viện kiểm sát đã kháng nghị thay đổi, bổ sung kháng
nghị như sau:
a) Trường hợp chưa hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 183 của Luật TTHC thì Viện
kiểm sát đã kháng nghị có quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị mà không
bị giới hạn bởi phạm vi kháng nghị ban đầu;
b) Trường hợp đã hết thời hạn kháng nghị theo quy định tại Điều 183 của Luật TTHC thì
trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà người đã kháng nghị có
quyền thay đổi, bổ sung kháng nghị, nhưng không được vượt quá phạm vi đã kháng
nghị trong thời hạn kháng nghị.
2. Toà án chấp nhận việc đương sự đã kháng cáo thay đổi, bổ sung kháng
cáo như sau:
a) Trường hợp chưa hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 176 của Luật TTHC thì
đương sự đã kháng cáo có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo mà không
bị giới hạn bởi phạm vi kháng cáo ban đầu;
b) Trường hợp đã hết thời hạn kháng cáo theo quy định tại Điều 176 của Luật TTHC thì
trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà người đã kháng cáo
có quyền thay đổi, bổ sung kháng cáo, nhưng không được vượt quá phạm vi đã
kháng cáo trong thời hạn kháng cáo.
Điều 22. Xác định thời hạn chuẩn bị xét xử trong trường hợp có quyết định tạm đình
chỉ xét xử phúc thẩm quy định tại Điều 191 của Luật TTHC
Trường hợp có quyết định tạm đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án hành chính
thì thời hạn chuẩn bị xét xử kết thúc vào ngày ra quyết định tạm đình
chỉ. Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm bắt đầu tính lại, kể từ ngày Toà
án cấp phúc thẩm tiếp tục xét xử phúc thẩm vụ án khi lý do tạm đình
chỉ không còn nữa.
Chương IV
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 23. Hiệu lực thi hành
Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao
thông qua ngày 01 tháng 7 năm 2011 và có hiệu lực thi hành sau 45 ngày, kể từ ngày ký ban hành và
thay thế Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04 tháng 8 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Toà
án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh thủ tục
giải quyết các vụ án hành chính đã được sửa đổi, bổ sung theo các Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành
chính ngày 25 tháng 12 năm 1998 và ngày 05 tháng 4 năm 2006./.