THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn thi hành một số quy định của Bộ Luật Tố tụng Hình sự
đối với người tham gia tố tụng là người chưa thành niên
______________________
Để thi hành đúng và thống nhất các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự
(sau đây viết tắt là BLTTHS) về thủ tục tố tụng đối với người tham gia tố tụng là
người chưa thành niên, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân
dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng
dẫn như sau:
Chương I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
Điều 1. Mục đích
Người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tâm
thần, là những đối tượng dễ bị tổn thương, đặc biệt là khi họ tham gia tố tụng trong quá
trình giải quyết các vụ án, do đó tùy theo lứa tuổi, mức độ trưởng thành
và nhu cầu cá nhân mà họ cần được bảo vệ theo đúng quy định của pháp
luật khi tham gia tố tụng hình sự.
Điều 2. Phạm vi điều chỉnh
Thông tư này hướng dẫn một số quy định của BLTTHS liên quan đến người tham gia tố tụng
là người chưa thành niên, bao gồm: người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; người bị
hại, người làm chứng.
Điều 3. Trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng
Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa
thành niên, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải:
1. Bảo đảm tuân thủ theo đúng các quy định tại Chương XXXII và các quy định khác
của BLTTHS không trái với những quy định của Chương này.
2. Bảo đảm quyền của người chưa thành niên theo quy định của pháp luật được tôn
trọng trong suốt quá trình tố tụng. Việc điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
liên quan đến người chưa thành niên phải phù hợp với tâm lý, lứa tuổi của
họ.
3. Bảo đảm giữ bí mật thông tin cá nhân của người chưa thành niên. Mọi hoạt
động tố tụng liên quan đến người chưa thành niên phải được tiến hành trong môi
trường thuận tiện cho việc bảo đảm bí mật đời tư và danh dự, nhân phẩm của người
chưa thành niên.
4. Hạn chế đến mức thấp nhất số lần tiếp xúc giữa người bị hại, người làm chứng là
người chưa thành niên với bị can, bị cáo.
5. Áp dụng các biện pháp phù hợp, cần thiết theo quy định của pháp luật để
bảo đảm người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên cũng như người
thân thích của họ được an toàn về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài
sản và các quyền, lợi ích hợp pháp khác khi các quyền ấy bị đe dọa hoặc
bị xâm hại.
6. Ưu tiên giải quyết nhanh chóng, chính xác, kịp thời các vụ án liên quan
đến người chưa thành niên.
Điều 4. Phân công người tiến hành tố tụng
Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử các vụ án liên quan đến người chưa thành
niên, cơ quan tiến hành tố tụng cần phân công Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán đã được đào tạo hoặc có kinh nghiệm về điều tra, truy tố, xét xử
đối với người chưa thành niên hoặc người có hiểu biết cần thiết về tâm lý
học, khoa học giáo dục cũng như về hoạt động đấu tranh phòng chống tội phạm liên quan
đến người chưa thành niên.
Điều 5. Nguyên tắc xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội
Trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án do người chưa thành
niên phạm tội gây ra, cơ quan tiến hành tố tụng cần thực hiện đúng nguyên tắc
xử lý đối với người chưa thành niên phạm tội quy định tại Điều 69 Bộ luật hình
sự. Đặc biệt cần xem xét việc miễn trách nhiệm hình sự nếu có đủ điều kiện
quy định tại Khoản 2 Điều 69 Bộ luật hình sự, giao họ cho gia đình, cơ quan hoặc tổ chức
giám sát, giáo dục nhằm giúp họ tự sửa chữa lỗi lầm và tái hòa nhập
cộng đồng.
Chương II
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN
Điều 6. Xác định tuổi của bị can, bị cáo
Việc xác định tuổi của bị can, bị cáo là người chưa thành niên do cơ quan tiến
hành tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các
biện pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày,
tháng, năm sinh của bị can, bị cáo thì tuổi của họ được xác định như sau:
1. Trường hợp xác định được tháng sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày
thì trong tháng đó lấy ngày cuối cùng của tháng đó làm ngày
sinh của bị can, bị cáo.
2. Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày
tháng nào trong quý đó thì lấy ngày cuối cùng của tháng cuối cùng
trong quý đó làm ngày sinh của bị can, bị cáo;
3. Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định
được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày
30 tháng 6 hoặc ngày 31 tháng 12 tương ứng của năm đó làm ngày sinh của bị
can, bị cáo;
4. Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày tháng
sinh của bị can, bị cáo thì lấy ngày 31 tháng 12 của năm đó làm ngày
sinh của bị can, bị cáo.
5. Trường hợp không xác định được năm sinh của bị can, bị cáo là người chưa thành
niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.
Điều 7. Giám sát đối với người chưa thành niên phạm tội
1. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định giao người chưa thành
niên phạm tội cho cha, mẹ hoặc người đỡ đầu của họ giám sát để bảo đảm sự có
mặt của người chưa thành niên phạm tội khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành
tố tụng.
2. Đối với người chưa thành niên phạm tội không còn cha mẹ, không có nơi cư
trú rõ ràng hoặc là người lang thang, cơ nhỡ, không nơi nương tựa thì cơ quan
điều tra cần tìm mọi biện pháp để xác định lý lịch cũng như gia đình của
họ. Trong trường hợp không xác định được thì Cơ quan điều tra đề nghị cơ quan Lao động
- Thương binh và Xã hội hoặc Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ ở nơi bắt giữ, nơi xảy
ra tội phạm hoặc nơi có thẩm quyền điều tra cử cán bộ giám sát người chưa thành
niên phạm tội.
3. Khi đã chấp nhận đề nghị của cơ quan điều tra về việc cử cán bộ giám sát người
chưa thành niên phạm tội, cơ quan đã nhận trách nhiệm cử cán bộ giám sát
cần cử ngay cán bộ và kịp thời thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng biết
để tạo điều kiện cho họ tiếp xúc, gặp gỡ người chưa thành niên phạm tội.
4. Người được giao nhiệm vụ giám sát người chưa thành niên phạm tội phải giám
sát chặt chẽ, theo dõi tư cách đạo đức và giáo dục người đó.
Điều 8. Áp dụng các biện pháp ngăn chặn
1. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn như bắt, tạm giữ, tạm giam đối với người chưa
thành niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng phải xác định chính xác độ
tuổi của họ nhằm áp dụng đúng các quy định tại Điều 303 BLTTHS. Đối với các trường
hợp bị bắt quả tang, bắt khẩn cấp thì sau khi bắt, cơ quan tiến hành tố tụng phải khẩn trương
xác minh độ tuổi của họ để có quyết định xử lý phù hợp. Trước khi áp dụng
các biện pháp ngăn chặn được quy định tại Điều 303 BLTTHS, cơ quan tiến hành tố tụng
cần xem xét, cân nhắc áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác quy định tại
các Điều 91, 92 và 93 BLTTHS.
Đối với người chưa thành niên đã áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm
giam, cơ quan tiến hành tố tụng phải thường xuyên theo dõi, kiểm tra và khi xét thấy
không còn cần thiết áp dụng biện pháp ngăn chặn đó thì kịp thời hủy bỏ
hoặc thay thế bằng các biện pháp ngăn chặn khác không hạn chế tự do đối với họ.
2. Khi bắt giữ người chưa thành niên phạm tội, trong trường hợp cần thiết phải sử dụng vũ
lực thì việc sử dụng vũ lực phải theo đúng quy định của pháp luật và chỉ ở mức
độ đủ để kiểm soát người chưa thành niên phạm tội.
3. Khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam đối với người chưa thành
niên phạm tội, cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn chế việc gia hạn thời hạn tạm giữ, tạm
giam.
4. Người chưa thành niên phải được tạm giữ, tạm giam riêng, không được giam giữ chung
với người đã thành niên. Khi xét thấy người chưa thành niên phạm tội có
biểu hiện hoang mang, lo lắng có thể manh động dẫn đến hành vi tiêu cực thì cơ quan
điều tra yêu cầu cơ sở giam giữ áp dụng các biện pháp phù hợp để tránh
hậu quả xấu có thể xảy ra.
Chế độ tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải được bảo đảm theo đúng
quy định của pháp luật hiện hành.
5. Cơ quan ra lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam người chưa thành niên phạm tội phải thông báo
bằng văn bản cho gia đình, người đại diện hợp pháp của họ biết ngay sau khi bắt, tạm giữ,
tạm giam theo quy định tại Khoản 3 Điều 303 BLTTHS.
Điều 9. Việc tham gia tố tụng của người bào chữa theo quy định tại Khoản 2 Điều 57, Điều 58 và
Điều 305 BLTTHS
1. Bắt buộc phải có người bào chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can,
bị cáo là người chưa thành niên. Mọi trường hợp không có người bào
chữa tham gia tố tụng trong các vụ án có bị can, bị cáo là người chưa thành
niên là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, trừ trường hợp họ hoặc người đại diện
hợp pháp của họ từ chối người bào chữa. Người bào chữa có thể là: luật
sư; người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; bào chữa viên
nhân dân.
2. Khi giao quyết định tạm giữ hoặc quyết định khởi tố bị can, cơ quan ra quyết định phải thông
báo cho người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên và người đại diện
hợp pháp của họ về quyền có người bào chữa.
3. Người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo là người chưa thành
niên có thể lựa chọn người bào chữa theo quy định của pháp luật hoặc tự mình
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.
4. Trường hợp bị can, bị cáo là người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp
pháp của họ không lựa chọn được người bào chữa thì Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Tòa án phải yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật
sư cử người bào chữa cho họ hoặc đề nghị Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tổ chức thành
viên của Mặt trận cử người bào chữa cho thành viên của tổ chức mình, trừ trường
hợp người chưa thành niên hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối.
Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa án phải đề nghị Tổ chức thực hiện trợ giúp
pháp lý thực hiện trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo là trẻ em không
nơi nương tựa và có thể đề nghị trợ giúp pháp lý cho bị can, bị cáo là
người chưa thành niên khác.
5. Trường hợp bị can, bị cáo hoặc người đại diện hợp pháp của họ từ chối người bào
chữa thì phải lập biên bản lưu trong hồ sơ vụ án.
6. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải tạo điều kiện cho người bào
chữa thực hiện quyền tiếp xúc, gặp gỡ với bị can, bị cáo là người chưa thành
niên theo quy định của pháp luật.
Điều 10. Lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can quy định tại Điều 131 và Khoản 2 Điều 306
BLTTHS
1. Việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên có
thể thực hiện tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Nơi lấy lời khai
hoặc hỏi cung cần được bố trí theo cách chức phù hợp để làm giảm bớt sự căng
thẳng, sợ hãi của người chưa thành niên.
2. Trong quá trình điều tra, truy tố, các cơ quan tiến hành tố tụng cần hạn chế đến
mức thấp nhất số lần lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành
niên.
Điều tra viên, Kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung
bị can là người chưa thành niên phải có thái độ, hành vi cũng như sử dụng
ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành
của họ.
Thời gian lấy lời khai, hỏi cung cần được xác định dựa trên độ tuổi, tình trạng tâm
lý, sức khỏe cũng như khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành, phát triển của người
chưa thành niên và yêu cầu điều tra, Việc lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung
bị can phải được tạm dừng ngay khi người chưa thành niên có biểu hiện mệt mỏi, ảnh
hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.
3. Khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người chưa thành niên, cơ quan
tiến hành tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa, người đại diện hợp
pháp của họ về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung. Trường hợp cần thiết hoặc khi người
chưa thành niên có yêu cầu, có thể mời cán bộ chuyên trách, cán
bộ trợ giúp, tư vấn về pháp lý, y tế cùng tham gia để tạo tâm lý yên
tâm, thoải mái cho họ.
4. Khi lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi
hoặc là người chưa thành niên có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc
trong những trường hợp cần thiết khác, cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo trước
cho đại diện của gia đình để bảo đảm sự có mặt của họ. Việc lấy lời khai người bị
tạm giữ, hỏi cung bị can khi không có mặt đại diện gia đình chỉ được thực hiện trong
trường hợp người đó không có gia đình, đại diện gia đình cố ý vắng mặt
mà không có lý do chính đáng hoặc họ từ chối tham gia.
Trường hợp đại diện gia đình của người bị tạm giữ, bị can không thể có mặt, để
bảo đảm trình tự, thủ tục tố tụng được tiến hành kịp thời theo quy định, thì việc
lấy lời khai người bị tạm giữ, hỏi cung bị can vẫn được thực hiện nhưng cơ quan tiến hành tố
tụng phải mời cán bộ thuộc một trong các cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội,
Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc Luật sư tham gia lấy lời khai, hỏi cung.
Đại diện gia đình, cán bộ thuộc cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, đại diện
Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Luật sư có thể được bố trí ngồi cạnh người chưa
thành niên để tạo tâm lý yên tâm, thoải mái cho họ.
Nếu thấy cần thiết cho quá trình lấy lời khai, hỏi cung thì có thể cho đại diện gia
đình hỏi người bị tạm giữ, hỏi bị can những câu hỏi mang tính chất động viên,
thuyết phục, giáo dục. Đại diện gia đình không được hỏi những câu hỏi mang tính
chất gợi ý, định hướng, câu hỏi mang tính chất khẳng định, phủ định liên quan đến
vụ án. Khi thấy đại diện gia đình có dấu hiệu thông cung, mớm cung phải lập tức
yêu cầu đại diện gia đình dừng ngay việc hỏi và lập biên bản về việc này.
5. Đại diện gia đình người bị tạm giữ, bị can là người chưa thành niên được đưa
ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng; khiếu
nại các hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng; đọc hồ sơ vụ án khi kết
thúc điều tra.
Điều 11. Xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành niên
1. Thành phần Hội đồng xét xử vụ án có bị cáo là người chưa thành
niên phải có Hội thẩm nhân dân đang hoặc đã là giáo viên hoặc cán
bộ Đoàn thanh niên
2. Ngoài các trường hợp quy định tại Điều 18 BLTTHS, Tòa án có thể quyết định
xét xử kín vụ án do người chưa thành niên phạm tội gây ra để tạo thuận
lợi cho quá trình tái hòa nhập cộng đồng của họ.
Không tiến hành xét xử lưu động vụ án do người chưa thành niên gây ra,
trừ trường hợp cần giáo dục, tuyên truyền pháp luật và phòng ngừa tội phạm.
3. Khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể sắp xếp lại vị trí của những người
tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm làm giảm
cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người chưa thành niên phạm tội.
Không còng tay hoặc sử dụng các phương tiện cưỡng chế khác trong quá trình
xét xử tại Tòa án, trừ trường hợp họ phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, rất nghiêm
trọng do cố ý hoặc có việc làm tiêu cực hoặc có biểu hiện chống đối, gây
mất trật tự tại phiên toà.
4. Tại phiên tòa xét xử bị cáo là người chưa thành niên phải có
mặt đại diện của gia đình bị cáo, trừ trường hợp đại diện gia đình cố ý vắng
mặt mà không có lý do chính đáng, đại diện của nhà trường, tổ chức
nơi học học tập, sinh hoạt.
Đại diện của gia đình bị cáo, đại diện của nhà trường, tổ chức tham gia phiên tòa
có quyền đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu và đề nghị thay đổi người tiến hành
tố tụng; tham gia tranh luận; khiếu nại các hành vi tố tụng của những người có thẩm quyền
tiến hành tố tụng và các quyết định của Tòa án.
Trường hợp cần thiết hoặc khi người chưa thành niên có yêu cầu, Tòa án có
thể mời đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên
hoặc cán bộ trợ giúp khác tham gia phiên tòa để hỗ trợ cho họ.
5. Việc thẩm vấn, xét hỏi bị cáo là người chưa thành niên tại phiên tòa
phải theo quy định tại Điều 209 BLTTHS và phù hợp với lứa tuổi, mức độ phát triển của
bị cáo.
Những lời giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu
hỏi đưa ra tại phiên tòa cần đơn giản, rõ ràng để đảm bảo cho người chưa thành
niên và đại diện gia đình của họ có thể hiểu và trả lời đúng câu
hỏi.
Hội đồng xét xử phải cho phép người chưa thành niên bày tỏ ý kiến, quan
điểm, nguyện vọng của mình và phải cân nhắc, xem xét các ý kiến, quan điểm,
nguyện vọng đó trước khi ra bản án, quyết định.
Chương III
THỦ TỤC TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI NGƯỜI BỊ HẠI, NGƯỜI LÀM CHỨNG LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH
NIÊN
Điều 12. Xác định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên
Việc xác định tuổi của người bị hại là người chưa thành niên do cơ quan tiến hành
tố tụng thực hiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp đã áp dụng các biện
pháp hợp pháp mà vẫn không xác định được chính xác ngày, tháng,
năm sinh của người bị hại là người chưa thành niên thì tuổi của họ được xác
định như sau:
1. Trường hợp xác định tháng sinh cụ thể, nhưng không xác định được ngày sinh
trong tháng đó thì lấy ngày mùng một của tháng đó làm ngày
sinh;
2. Trường hợp xác định được quý cụ thể của năm, nhưng không xác định được ngày
tháng nào trong quý đó thì lấy ngày mùng một của tháng đầu của
quý đó làm ngày sinh;
3. Trường hợp xác định được cụ thể nửa đầu năm hay nửa cuối năm, nhưng không xác định
được ngày tháng nào trong nửa đầu năm hoặc nửa cuối năm đó thì lấy ngày
mùng một tháng Giêng hoặc ngày mùng một tháng Bảy tương ứng của năm đó
làm ngày sinh;
4. Trường hợp xác định được năm sinh cụ thể nhưng không xác định được ngày tháng
sinh thì lấy ngày mùng một tháng Giêng của năm đó làm ngày sinh.
5. Trường hợp không xác định được năm sinh của người bị hại là người chưa thành
niên thì phải tiến hành giám định để xác định tuổi của họ.
Điều 13. Giám hộ và trợ giúp đối với người bị hại là người chưa thành niên
1. Khi xác định được người bị hại là người chưa thành niên thì cơ quan tiến
hành tố tụng cần thông báo ngay cho cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp
của người bị hại là người chưa thành niên để họ có thể gặp gỡ và thực
hiện quyền, nghĩa vụ của mình trong quá trình tố tụng.
2. Ngoài các cá nhân tham gia tố tụng với tư cách là người giám hộ, người
đại diện hợp pháp, cơ quan tiến hành tố tụng có thể đề nghị đại diện cơ quan Lao
động - Thương binh và Xã hội, đại diện Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên ở nơi tiến
hành tố tụng hoặc cán bộ hỗ trợ khác trợ giúp cho người bị hại là người
chưa thành niên, đặc biệt là những người không có gia đình, lang thang cơ nhỡ,
trẻ em không nơi nương tựa, trẻ em bị buôn bán, đánh tráo, chiếm đoạt khi họ
hoặc gia đình họ có yêu cầu hỗ trợ về chỗ ở, tham vấn, chăm sóc y tế, sức khỏe,
trợ giúp về mặt pháp lý, tâm lý trong quá trình tố tụng hoặc khi xét
thấy cần thiết.
Đối với người bị hại là trẻ em không nơi nương tựa, cơ quan tiến hành tố tụng phải
đề nghị Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp lý trợ giúp pháp lý cho họ.
Cơ quan tiến hành tố tụng cũng có thể đề nghị Tổ chức thực hiện trợ giúp pháp
lý trợ giúp pháp lý cho người bị hại là người chưa thành niên khác.
3. Khi cơ quan tiến hành tố tụng đề nghị cử cán bộ tham gia tố tụng để hỗ trợ cho người
bị hại là người chưa thành niên, cơ quan hoặc tổ chức được đề nghị cần cử ngay cán
bộ và thông báo cho cơ quan tiến hành tố tụng biết để tạo điều kiện cho cán
bộ hỗ trợ tiếp xúc, gặp gỡ người bị hại là người chưa thành niên.
4. Cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp và cán bộ hỗ trợ đã nhận
trách nhiệm trợ giúp cho người bị hại là người chưa thành niên có thể tham
gia trong các giai đoạn tố tụng của vụ án.
5. Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải:
a) Đảm bảo cung cấp những thông tin cần thiết về quá trình tố tụng cho người bị hại
là người chưa thành niên cũng như cho cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp,
cán bộ hỗ trợ của họ;
b) Đảm bảo sự có mặt của cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp, cán bộ
hỗ trợ để họ có thể hỗ trợ, động viên người bị hại là người chưa thành niên
trong suốt quá trình tố tụng;
c) Đảm bảo người bị hại là người chưa thành niên, nhất là trẻ em nhận được sự
trợ giúp chuyên môn về mặt y tế, sức khỏe, pháp lý, tâm lý phù hợp
khi họ cần.
Điều 14. Việc tham gia của người bảo vệ quyền lợi của người bị hại là người chưa thành niên
1. Cơ quan tiến hành tố tụng phải thông báo cho người bị hại là người chưa thành
niên hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, người đại diện hợp pháp của họ về quyền nhờ luật
sư, bào chữa viên nhân dân hoặc người khác bảo vệ quyền lợi cho người bị hại
là người chưa thành niên.
Trường hợp người bị hại là người chưa thành niên hoặc cha mẹ, người đỡ đầu, người
đại diện hợp pháp của họ không lựa chọn được người bảo vệ quyền lợi cho người bị
hại thì theo yêu cầu hoặc đề nghị của họ, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát hoặc Tòa
án cần yêu cầu Đoàn luật sư phân công Văn phòng luật sư cử luật sư hoặc
cơ quan, tổ chức có người bị hại là thành viên cử bào chữa viên nhân
dân bảo vệ quyền lợi cho họ.
2. Người bảo vệ quyền lợi cho người bị hại là người chưa thành niên có quyền tham
gia tố tụng từ khi khởi tố bị can, có mặt khi cơ quan tiến hành tố tụng lấy lời khai của
người mà mình bảo vệ; có quyền kháng cáo phần bản án, quyết định của
Tòa án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ;
có quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên
dịch theo quy định của BLTTHS.
Điều 15. Lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên
1. Việc lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên có
thể thực hiện tại nơi tiến hành điều tra hoặc tại nơi ở của người đó. Nơi lấy lời khai
người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên cần được bố trí
theo cách thức thích hợp để họ cảm thấy an toàn, thoải mái.
2. Điều tra viên, Kiểm sát viên khi tiến hành lấy lời khai người bị hại, người làm
chứng là người chưa thành niên phải có thái độ thân thiện, nhẹ nhàng,
sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi, giới tính, khả năng nhận thức, mức độ trưởng
thành của họ.
3. Khi lấy lời khai của người bị hại, người làm chứng là trẻ em, cơ quan tiến hành tố
tụng phải mời cha mẹ, người đỡ đầu, người bảo vệ quyền lợi của người bị hại hoặc người
đại diện hợp pháp khác hoặc thầy cô giáo của người đó tham dự.
Theo yêu cầu của người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên hoặc
người đại diện hợp pháp của họ, cơ quan tiến hành tố tụng có thể mời đại diện
cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên hoặc cán
bộ trợ giúp khác tham gia để hỗ trợ cho họ.
4. Cơ quan tiến hành tố tụng cần dựa trên độ tuổi, tình trạng tâm lý, sức khỏe,
khả năng nhận thức, mức độ trưởng thành, phát triển của người bị hại, người làm
chứng là người chưa thành niên và yêu cầu điều tra để áp dụng các
biện pháp nghiệp vụ phù hợp nhằm giảm đến mức thấp nhất số lần phải lấy lời khai cũng
như xác định thời lượng các lần lấy lời khai đối với họ. Việc lấy lời khai người bị
hại, người làm chứng là người chưa thành niên phải tạm dừng ngay khi họ có biểu
hiện mệt mỏi ảnh hưởng đến khả năng khai báo chính xác, đầy đủ.
5. Việc thu thập chứng cứ, lấy lời khai người bị hại là người chưa thành niên, bao gồm
cả việc kiểm tra dấu vết trên người, chụp ảnh thương tích, ghi âm, ghi hình phải theo
đúng quy định của BLTTHS và phải bảo đảm không làm ảnh hưởng tới tâm lý
cũng như quyền bí mật thông tin cá nhân và danh dự, nhân phẩm của họ.
Khi lấy lời khai người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên, cơ quan tiến
hành tố tụng có thể ghi âm, ghi hình và phải ghi vào biên bản về việc
này để khi tiến hành xét xử vụ án, Hội đồng xét xử có thể sử dụng
băng ghi âm, ghi hình đó bổ trợ cho các chứng cứ đã được thu thập trong quá
trình điều tra.
6. Cơ quan tiến hành tố tụng phải hạn chế đến mức thấp nhất việc tiến hành đối chất giữa
người bị hại là người chưa thành niên, đặc biệt là trẻ em với bị can, bị cáo
để không làm tổn thương tâm lý, tinh thần của họ. Đối với các vụ án xâm
phạm tình dục, hành hạ, mua bán, chiếm đoạt trẻ em thì chỉ tiến hành đối chất
khi thấy việc đó là cần thiết để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án
mà nếu không đối chất thì không thể giải quyết được vụ án.
Điều 16. Xét xử vụ án có người bị hại là người chưa thành niên
1. Khi tiến hành xét xử vụ án có người bị hại là người chưa thành niên,
để bảo đảm lợi ích tốt nhất cho họ, Tòa án cần tạo điều kiện để thành phần
Hội đồng xét xử có Hội thẩm nhân dân hoặc đã là giáo viên hoặc
cán bộ Đoàn Thanh niên như trong trường hợp xét xử vụ án có bị cáo
là người chưa thành niên.
2. Khi tiến hành xét xử, Tòa án có thể sắp xếp lại đồ vật và vị trí
của những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng trong phòng xử án nhằm
làm giảm cảm giác căng thẳng, sợ hãi đối với người bị hại, người làm chứng
là người chưa thành niên.
Việc giải thích về quyền và nghĩa vụ, thủ tục xét xử cũng như các câu hỏi đưa
ra tại phiên tòa cần đơn giản, rõ ràng để giúp cho người bị hại, người làm
chứng là người chưa thành niên và đại diện gia đình của họ có thể hiểu
và trả lời đúng câu hỏi.
Chủ tọa phiên tòa có thể yêu cầu cha, mẹ, người đỡ đầu hoặc thầy giáo, cô
giáo giúp đỡ để hỏi người làm chứng là người chưa thành niên.
3. Để bảo vệ quyền riêng tư và danh dự, nhân phẩm của người bị hại là người chưa
thành niên và làm giảm cảm giác sợ hãi của họ, trước khi tiến hành
xét xử, Tòa án cần xem xét, cân nhắc các tình tiết liên quan đến
vụ án để quyết định có xét xử kín hay không, đặc biệt là những vụ án
xâm phạm tình dục trẻ em, mua bán trẻ em.
4. Đối với vụ án có người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên,
đặc biệt là trong vụ án xâm phạm tình dục trẻ em, mua bán trẻ em, Tòa án
cần căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã có trong hồ sơ vụ án để quyết
định việc xét xử vụ án khi người bị hại, người làm chứng là người chưa thành
niên vắng mặt, hạn chế việc hoãn phiên tòa.
5. Khi cần yêu cầu người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên trình
bày lời khai của mình tại phiên tòa trong điều kiện cho phép, Hội đồng xét
xử có thể cho phép họ đứng sau màn chắn, bình phong để không nhìn thấy bị
cáo hoặc làm chứng trực tiếp tại một phòng khác thông qua kết nối hệ thống
camera.
6. Để người bị hại, người làm chứng là người chưa thành niên có thể hiểu
biết rõ hơn về Tòa án, khi họ hoặc người đại diện hợp pháp, người bào chữa
hoặc cha mẹ của họ có yêu cầu, Tòa án có thể cho họ đến phòng xử án
trước khi mở phiên tòa xét xử vụ án liên quan đến họ.
Chương IV
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 17. Hiệu lực thi hành
Thông tư này có hiệu lực sau bốn mươi lăm ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
Những quy định trong các văn bản hướng dẫn của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội liên quan đến người bị bắt, người tham gia tố tụng là người chưa thành niên
(nếu có) trái với Thông tư này đều bị bãi bỏ.
Trong quá trình thực hiện nếu phát sinh vướng mắc hoặc có những vấn đề cần phải
giải thích, hướng dẫn đề nghị phản ánh cho Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã
hội để có sự giải thích hoặc hướng dẫn, bổ sung kịp thời./.