TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ TƯ PHÁP - BỘ CÔNG AN Số: 01/2000/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BCA | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 12 tháng 06 năm 2000 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn thi hành mục 3 Nghị quyết số 32/1999/QH10 ngày 21 tháng 12 năm 1999 của quốc hội
và Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 ngày 28 tháng 1 năm 2000 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
_________________________________
Ngày 21-12-1999, Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X đã thông
qua Bộ luật Hình sự mới của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (từ đây gọi
tắt là Bộ luật Hình sự năm 1999). Quốc hội cũng đã thông qua Nghị quyết số 32/1999/QH10
về việc thi hành Bộ luật Hình sự (từ đây gọi tắt là Nghị quyết số 32). Tại Mục
1 của Nghị quyết đã quy định là Bộ luật Hình sự năm 1999 có hiệu lực từ ngày
01-7-2000, nhưng tại Mục 3 của Nghị quyết đã quy định đường lối, chính sách xử lý
đối với một số trường hợp cụ thể được áp dụng kể từ ngày Bộ luật Hình sự được
công bố (ngày 4-1-2000). Ngày 28-1-2000, Uỷ ban thường vụ Quốc hội cũng đã ban hành
Nghị quyết số 229/2000/NQ-UBTVQH10 về việc triển khai thực hiện Mục 3 Nghị quyết của Quốc hội "về
việc thi hành Bộ luật Hình sự" (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 229).
Để thi hành đúng các quy định tại Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội và các
quy định tại Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Toà án nhân dân tối
cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an thống nhất hướng dẫn
một số điểm sau đây, kể từ ngày Bộ luật Hình sự được công bố (ngày 4-1-2000):
1. Trong mọi trường hợp khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm cũng không áp dụng
hình phạt tử hình đối với người phạm một trong những tội mà Bộ luật Hình sự
năm 1999 đã bỏ hình phạt tử hình đối với tội đó; cụ thể là các tội
sau đây:
Trong các trường hợp trên đây, nếu khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm mà
xét thấy hành vi phạm tội là đặc biệt nghiêm trọng và theo quy định của Bộ
luật Hình sự năm 1985 phải xử phạt người phạm tội với mức hình phạt cao nhất là tử
hình, thì nay áp dụng điều luật tương ứng của Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử
phạt người phạm tội với mức hình phạt cao nhất mà điều luật đó quy định.
2. Khi xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm không áp dụng hình phạt tử hình
đối với phụ nữ có thai, phụ nữ đang có con (con đẻ, con nuôi) dưới 36 tháng tuổi
khi phạm tội hoặc khi xét xử về tội phạm mà Bộ luật Hình sự năm 1999 vẫn quy định
hình phạt tử hình.
Chỉ được coi là con nuôi, nếu việc nhận con nuôi và được nhận làm con nuôi
được thực hiện theo các điều kiện, trình tự, thủ tục do pháp luật về hôn nhân
và gia đình, pháp luật về hộ tịch quy định.
3. Điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 quy định: "Không xử lý về hình sự đối với người
thực hiện hành vi mà Bộ luật Hình sự trước đây quy định là tội phạm, nhưng
Bộ luật Hình sự này không quy định là tội phạm...." Hành vi mà Bộ luật
Hình sự năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997)
quy định là tội phạm, nhưng Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm
bao gồm:
a. Hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định thành một tội danh cụ thể trong một
điều luật cụ thể nay Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa và
đã bỏ tội danh này; cụ thể là:
b. Hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định là tội phạm trong một điều luật cụ
thể về một tội danh cụ thể, nay Bộ luật Hình sự năm 1999 tuy vẫn có điều luật cụ thể
về tội danh đó, nhưng trong điều luật đó đã bỏ hành vi phạm tội này.
Ví dụ 1: Hành vi chuyển nhượng trái phép nhà do Nhà nước hoặc tổ chức xã
hội quản lý thu lợi bất chính lớn, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự về tội "vi phạm các quy định về quản lý nhà" theo quy định tại Điều 214
Bộ luật Hình sự năm 1985, nay trong Bộ luật Hình sự năm 1999 tuy vẫn có Điều 270 quy định
về tội "vi phạm các quy định về quản lý nhà ở", nhưng trong điều luật đó
đã bỏ hành vi này.
Ví dụ 2: hành vi của ông, bà, cha, mẹ, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng
của người phạm tội không tố giác các tội phạm không phải là các tội xâm
phạm an ninh quốc gia hoặc các tội phạm khác không phải là tội đặc biệt nghiêm
trọng, thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "không tố giác
tội phạm" theo quy định tại Điều 247 Bộ luật Hình sự năm 1985, nay trong Bộ luật Hình sự
năm 1999 tuy vẫn có Điều 314 quy định về tội không tố giác tội phạm, nhưng trong điều
luật đó đã bỏ hành vi này;
c. Hành vi mà Bộ luật Hình sự năm 1985 quy định là tội phạm, nay theo Bộ luật Hình
sự năm 1999 thì hành vi này không phải là tội phạm vì không có một
hoặc một số dấu hiệu cấu thành bắt buộc mới được bổ sung.
Ví dụ 1: Các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản,
lừa đảo chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng theo Bộ luật
Hình sự năm 1985 có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng mà
không cần phải kèm theo bất kỳ một điều kiện nào, nay theo Bộ luật Hình sự năm 1999
thì chỉ coi là tội phạm và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
tội danh tương ứng, nếu thuộc một trong các trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng hoặc
đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về
tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm; do đó,
các hành vi công nhiên chiếm đoạt tài sản, trộm cắp tài sản, lừa đảo chiếm
đoạt tài sản có giá trị dưới năm trăm nghìn đồng mà không thuộc một trong
các trường họp này, thì theo Bộ luật Hình sự năm 1999 không phải là tội
phạm.
Ví dụ 2: Các hành vi như cưỡng ép kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện
tiến bộ, tổ chức tảo hôn hoặc tảo hôn theo Bộ luật Hình sự năm 1985 có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danh tương ứng, nay theo Bộ luật Hình sự năm 1999 thì
chỉ coi là tội phạm và có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội danhtương
ứng, nếu họ đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
Trong trường hợp chưa bị xử phạt hành chính về hành vi này, thì không phải
là tội phạm.
Ví dụ 3: Các hành vi vi phạm các quy định về quản lý đất đai không vì
vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác nếu gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã
bị xử lý hành chính theo Bộ luật Hình sự năm 1985 có thể bị truy cứu trách
nhiệm hình sự về tội "vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ đất đai",
(Điều 180); nay theo Bộ luật Hình sự năm 1999 thì chỉ coi là tội phạm và có thể
bị truy cứu trách nhiệm hình sự về "tội vi phạm các quy định về quản lý đất
đai" (Điều 174) nếu đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà còn vi
phạm. Trong trường hợp chưa bị xử lý kỷ luật (kể cả xử phạt vi phạm hành chính) về
hành vi này, dù thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 174 Bộ
luật Hình sự năm 1999 thì vẫn không phải là tội phạm. (Nếu vì vụ lợi hoặc
động cơ cá nhân khác, thì tuỳ từng thời điểm, từng trường hợp có thể bị
truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công
vụ quy định tại Điều 221 Bộ luật Hình sự năm 1985 hoặc Điều 281 Bộ luật Hình sự năm 1999).
4. Điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội quy định: "không xử lý về hình sự
đối với người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi về tội phạm có mức
cao nhất của khung hình phạt đến bảy năn tù..."; do đó, trong quá trình điều
tra, truy tố, xét xử một vụ án hình sự mà có bị can, bị cáo là người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi khi phạm tội, cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát hoặc Toà án cần kiểm tra xem về tội phạm mà người chưa thành niên đó
bị khởi tố, truy tố hoặc xét xử, thì Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định mức cao nhất
của khung hình phạt là bao nhiêu năm tù; nếu Bộ luật Hình sự năm 1999 quy định
mức cao nhất của khung hình phạt đó là 7 năm tù trở xuống, thì đình chỉ
điều tra vụ án hoặc đình chỉ vụ án.
5. Việc đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ án đối với các trường hợp
nêu tại Mục 3 và Mục 4 Thông tư này được thực hiện như sau:
a. Nếu vụ án đang trong giai đoạn điều tra, thì cơ quan điều tra áp dụng điểm c (hoặc điểm
d) Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và điểm a khoản 1 Điều 139 Bộ luật tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ điều
tra vụ án;
b. Nếu hồ sơ vụ án đã được chuyển đến Viện kiểm sát để quyết định việc truy tố,
thì Viện kiểm sát áp dụng điểm c (hoặc điểm d) Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội,
Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và khoản 1 Điều 143 b Bộ luật Tố tụng
hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
c. Nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, thì cần phân biệt như sau:
- Trong trường hợp Viện kiểm sát có Công văn rút lại hồ sơ để điều tra bổ sung làm
rõ trách nhiệm hình sự của bị can mà Toà án xét thấy có căn cứ,
thì Toà án áp dụng điểm b khoản 2 Điều 151 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết
định trả hồ sơ cho Viện kiểm sát; nếu qua điều tra bổ sung thấy vẫn thuộc một trong các
trường hợp nêu tại các mục 3 và 4 Thông tư này, thì Viện kiểm sát áp
dụng điểm c (hoặc điểm d) Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội và Điều 143 b Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình
chỉ vụ án và thông báo cho Toà án biết theo quy định tại khoản 2 Điều 154
Bộ luật Tố tụng hình sự;
- Trong trường hợp Viện kiểm sát có Công văn (hoặc Quyết định ) rút quyết định truy
tố và đề nghị Toà án đình chỉ vụ án, thì Thẩm phán được phân
công làm chủ toạ phiên toà xét xử vụ án đó áp dụng điểm c (hoặc
điểm d) Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội và Điều 156 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án;
- Trong trường hợp Viện Kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố, thì Thẩm phán
được phân công làm chủ toạ phiên toà (nếu trong thời hạn chuẩn bị xét xử)
hoặc Hội đồng xét xử (nếu tại phiên toà sơ thẩm) áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết
số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và điểm 2 Điều
89 Bộ luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án (đối với trường hợp được
nêu tại mục 3 Thông tư này) hoặc áp dụng điểm d mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc
hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, điểm 3 Điều 89 và Điều 155 Bộ
luật Tố tụng hình sự ra quyết định đình chỉ vụ án (đối với trường hợp được nêu
tại Mục 4 Thông tư này);
d. Nếu vụ án đang trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, thì Toà án cấp phúc
thẩm phải mở phiên toà và tuỳ từng trường hợp việc quyết định đình chỉ vụ án
được thực hiện như sau:
- Đối với trường hợp được nêu tại Mục 3 Thông tư này, thì Hội đồng xét xử
áp dụng điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, điểm 2 Điều 89 và Điều 223 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định huỷ bản
án sơ thẩm, tuyên bố bị cáo không phải chịu trách nhiệm hình sự và
đình chỉ vụ án.
- Đối với trường hợp được nêu tại Mục 4 Thông tư này, thì Hội đồng xét xử
áp dụng điểm d Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội, Mục 3 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường
vụ Quốc Hội, điểm 3 Điều 89 và Điều 223 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định huỷ bản
án sơ thẩm và đình chỉ vụ án.
đ. Cần chú ý rằng việc đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ án được
hướng dẫn tại các điểm a, b, c và d mục này chỉ là đình chỉ đối với các
trường hợp được nêu tại các Mục 3 và 4 Thông tư này về mặt hình sự, còn
các vấn đề khác như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng... (kể
cả việc xử lý hành chính, xử lý kỷ luật) và việc truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với các bị can, bị cáo khác trong vụ án (nếu có), thì
vẫn được giải quyết theo thủ tục chung.
6. Việc miễn chấp hành hình phạt quy định tại mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội được tiến hành theo các bước như sau:
a. Cơ quan được giao thẩm quyền đề nghị theo quy định tại Mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội có trách nhiệm rà soát các đối tượng thuộc diện được miễn
chấp hành hình phạt và lập thành một danh sách. Danh sách này cần ghi
rõ họ, tên người được đề nghị miễn chấp hành hình phạt; ngày, tháng,
năm sinh và nơi cư trú của họ, tội danh và mức hình phạt đã bị Toà án
xử phạt theo bản án số..., ngày, tháng, năm. Kèm theo danh sách này là
bản sao bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật đối
với mỗi một đối tượng cụ thể. Danh sách này và các bản sao bản án, quyết
định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật được gửi kèm theo Công
văn đề nghị đến Chánh án Toà án nhân dân có thẩm quyền ra quyết định
miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội;
b. Chánh án Toà án nhân dân có thẩm quyền ra quyết định miễn nhiệm chấp
hành hình phạt xem xét và nếu thấy các tài liệu đã đầy đủ rõ
ràng, thì tuỳ từng trường hợp áp dụng điểm tương ứng Mục 4 Nghị quyết số 229 của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra quyết định miễn chấp hành hình phạt cho các đối tượng
được đề nghị; nếu có tài liệu nào chưa đủ hoặc có vấn đề gì chưa rõ
thì yêu cầu cơ quan được giao thẩm quyền đề nghị cung cấp tài liệu đó hoặc làm
rõ thêm;
c. Bản sao quyết định miễn chấp hành hình phạt được gửi cho đương sự, cơ quan đề nghị
miễn chấp hành hình phạt, các cơ quan liên quan để thi hành và Viện kiểm sát
cùng cấp;
d. Cần chú ý là điểm c Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội chỉ quy định việc miễn
chấp hành hình phạt (cả hình phạt chính và hình phạt bổ sung), còn đối
với các vấn đề khác đối với họ, như trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trả lại
tài sản, xử lý vật chứng...., thì họ vẫn phải thi hành;
đ. Cần chú ý là việc miễn chấp hành hình phạt theo các bước trên đây
chỉ được tiến hành đối với người bị kết án trước ngày công bố Bộ luật Hình
sự năm 1999 (ngày 4-1-2000). Đối với các đối tượng được nêu tại các mục 3 và
4 Thông tư này mà bị kết án kể từ ngày 4-1-2000, thì không thực hiện
miễn chấp hành hình phạt đối với họ mà phải xét lại bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật đối với họ theo thủ tục giám đốc thẩm.
7. Trong trường hợp một người bị kết án về nhiều tội (trong cùng một bản án hoặc trong
nhiều bản án), trong đó có tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định
là tội phạm nữa, thì việc miễn chấp hành hình phạt đối với tội này được
thực hiện như sau:
a. Nếu người bị kết án chưa chấp hành hình phạt hoặc đang chấp hành hình phạt,
nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt chưa vượt quá mức hình phạt mà Toà
án đã xử phạt đối với tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 vẫn quy định là
tội phạm, thì họ được miễn chấp hành toàn bộ hình phạt đối với tội mà
Bộ luật Hình sự năm 1999 không quy định là tội phạm nữa.
Ví dụ 1: Nguyễn Văn A bị toà án xử phạt 2 năm tù về tội "vắng mặt trái
phép" và 3 năm tù về tội "làm mất vũ khí quân dụng", tổng hợp
hình phạt buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 5 năm tù; nếu Nguyễn
Văn A chưa chấp hành hình phạt tù hoặc đang chấp hành hình phạt tù, nhưng
thời gian đã chấp hành hình phạt tù chưa quá ba năm, thì Nguyễn Văn A được
miễn chấp hành toàn bộ hình phạt 2 năm tù đối với tội "vắng mặt trái
phép";
b. Nếu người bị kết án đã chấp hành một phần hình phạt hoặc dang chấp hành
hình phạt, nhưng thời gian đã chấp hành hình phạt vượt quá mức hình phạt
mà Toà án đã xử phạt đối với tội mà Bộ luật Hình sự năm 1999 vẫn quy
định là tội phạm, thì họ được miễn chấp hành phần hình phạt còn lại.
Ví dụ 2: Nếu trong ví dụ 1 trên đây của Mục này, Nguyễn Văn A đã chấp hành
hình phạt tù quá 3 năm, thì Nguyễn văn A được miễn chấp hành phần hình
phạt tù còn lại.
8. Khi đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ án cũng như miễn chấp hành hình
phạt, thì cơ quan ra quyết định đình chỉ hay quyết định miễn chấp hành hình phạt
cần giải thích cho người được đình chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ án
hoặc được miễn chấp hành hình phạt biết là việc đình chỉ hoặc miễn chấp hành
hình phạt này là do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước
ta, chứ không phải về oan sai do cơ quan tiến hành tố tụng gây ra; do đó, họ không
có quyền yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 624 Bộ luật Dân
sự.
9. Trong trường hợp các cơ quan, tổ chức, cũng như bản thân người bị kết án đề nghị
việc miễn chấp hành hình phạt theo quy định tại Mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, thì các cơ quan Công an, Viện kiểm sát, Toà án, Tư pháp
cần hướng dẫn họ làm đơn đề nghị và cùng bản sao bản án, quyết định của Toà
án đã có hiệu lực pháp luật gửi cho cơ quan được giao thẩm quyền đề nghị theo
quy định tại Mục 4 Nghị quyết số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội để tiến hành việc miễn
chấp hành hình phạt theo hướng dẫn tại Mục 6 Thông tư này.
10. Đối với các đối tượng được nêu tại các mục 3 và 4 Thông tư này cũng
như các đối tượng thuộc diện được miễn chấp hành phạt theo quy định tại mục 4 Nghị quyết
số 229 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà đang bị truy nã, thì cơ quan ra quyết định đình
chỉ điều tra vụ án, đình chỉ vụ án hoặc miễn chấp hành hình phạt đồng thời
phải thông báo cho cơ quan đã ra quyết định (hoặc lệnh) truy nã biết để cơ quan này
ra ngay quyết định (hoặc lệnh) đình nã, nếu họ không bị truy nã về hành vi phạm
tội khác.
11. Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 27 tháng 6 năm 2000 và thay thế các
văn bản trước đây của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao hướng dẫn về việc thi hành Mục 3 Nghị quyết số 32 của Quốc hội.
Trong quá trình thực hiện, nếu có gì vướng mắc hoặc chưa được hướng dẫn, cần
phải giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung, thì đề nghị phản ánh cho Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an để có
sự giải thích hoặc hướng dẫn bổ sung kịp thời./. | |||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|