THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp liên ngành trong thi hành án dân sự
__________________________________________
Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Căn cứ Luật thi hành án dân sự ngày 14 tháng 11 năm 2008;
Căn cứ Luật tổ chức Toà án nhân dân ngày 02 tháng 4 năm 2002;
Căn cứ Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 02 tháng 4 năm 2002;
Căn cứ Nghị định số 93/2008/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2008 của Chính phủ quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Tư pháp;
Căn cứ Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục
thi hành án dân sự,
Bộ Tư pháp, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao
hướng dẫn thực hiện một số vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự và phối hợp
liên ngành trong thi hành án dân sự như sau:
Chương I
THỦ TỤC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Điều 1. Kiến nghị đối với bản án, quyết định của Toà án
1. Trường hợp phát hiện phần quyết định của bản án, quyết định của Toà án có
những điểm chưa rõ gây khó khăn cho việc thi hành án hoặc phát hiện lỗi chính
tả, số liệu sai sót do nhầm lẫn hoặc tính toán sai thì cơ quan thi hành án
có quyền yêu cầu bằng văn bản gửi Toà án đã ra bản án, quyết định giải
thích những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc số liệu sai sót.
Toà án được yêu cầu có trách nhiệm trả lời về những vấn đề được nêu
trong văn bản yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự.
Việc giải thích bằng văn bản những điểm chưa rõ, đính chính lỗi chính tả hoặc
sai sót về số liệu được thực hiện theo quy định tại Điều 240, Điều 382 Bộ luật tố tụng dân
sự và Điều 179 Luật thi hành án dân sự. Văn bản trả lời của Toà án là
căn cứ để cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án, quyết định thu hồi hoặc
sửa đổi, bổ sung quyết định thi hành án đã ban hành. Quyết định thi hành án
mới phải được ban hành trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được
văn bản và cần có nội dung tiếp tục duy trì kết quả thi hành án nếu quá
trình tổ chức thi hành án trước đó không có sai sót về trình tự,
thủ tục thi hành án.
2. Trường hợp phát hiện có căn cứ để xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án được thi hành thì Thủ trưởng
cơ quan thi hành án nơi đang tổ chức thi hành vụ việc có trách nhiệm kiến nghị
với người có thẩm quyền xem xét lại bản án, quyết định đó. Trong thời hạn 45 ngày,
kể từ ngày nhận được văn bản kiến nghị, người có thẩm quyền phải trả lời kiến nghị.
3. Đối với những trường hợp đã có văn bản kiến nghị xem xét lại bản án, quyết
định mà không nhận được văn bản trả lời khi đã hết thời hạn quy định tại Khoản
3 Điều 179 Luật thi hành án dân sự hoặc tuy chưa hết thời hạn mà nhận được văn
bản trả lời của cơ quan có thẩm quyền về việc không có cơ sở chấp nhận đơn khiếu
nại của đương sự, không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm thì
cơ quan thi hành án tổ chức thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật đó.
Thủ trưởng cơ quan thi hành án thông báo cho Chánh án, Viện trưởng Viện kiểm
sát có thẩm quyền về việc không nhận được văn bản trả lời của người có thẩm
quyền.
Điều 2. Ra quyết định thi hành án
1. Trường hợp nhận được nhiều đơn yêu cầu thi hành án liên quan đến một bản án,
quyết định vào cùng một thời điểm thì tuỳ thuộc vào nội dung của bản án,
quyết định của Toà án, số đơn và thời điểm nhận được đơn yêu cầu thi hành
án, phạm vi yêu cầu thi hành án, thời hạn ra quyết định thi hành án để thực
hiện việc ra một hay nhiều quyết định thi hành án theo quy định tại Điều 5 Nghị định số
58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật thi hành án dân sự về thủ tục thi hành án dân
sự.
Trường hợp có nhiều người phải thực hiện nghĩa vụ liên đới thì nếu người được thi
hành án yêu cầu một hoặc một số người trong những người phải thi hành án thực
hiện nghĩa vụ liên đới thi hành toàn bộ nghĩa vụ thì cơ quan thi hành án ra
quyết định thi hành án đối với người đó.
2. Trường hợp đương sự là người chưa thành niên, bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự hoặc đương sự là pháp nhân thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết
định thi hành án theo yêu cầu của người đại diện theo pháp luật của đương sự.
Trường hợp đương sự là người mất năng lực hành vi dân sự hoặc là người chưa thành
niên không còn cha, mẹ, không xác định được cha, mẹ hoặc cha, mẹ đều mất năng
lực hành vi dân sự, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, bị Toà án hạn
chế quyền của cha, mẹ hoặc cha, mẹ không có điều kiện chăm sóc, giáo dục người
chưa thành niên đó và nếu cha, mẹ có yêu cầu thì Thủ trưởng cơ quan
thi hành án ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người giám hộ.
Trường hợp đương sự có uỷ quyền cho người khác yêu cầu thi hành án thì
Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của
người được uỷ quyền.
3. Đối với bản án, quyết định của Toà hành chính, cơ quan thi hành án dân
sự chỉ thụ lý và ra quyết định thi hành án đối với phần nghĩa vụ về tài
sản như án phí, bồi thường thiệt hại, trả lại tài sản, giao lại đất đai được tuyên
cụ thể trong bản án, quyết định của Toà án. Những nội dung khác của bản án,
quyết định như tuyên bác đơn kiện, giữ nguyên quyết định hành chính hoặc huỷ
quyết định hành chính, không tuyên rõ các quyền và nghĩa vụ cụ thể về
các khoản tài sản nêu trên thì do cơ quan hành chính có thẩm quyền
thi hành.
4. Đối với các bản án, quyết định có tuyên tổng hợp hình phạt tiền trong đó
có khoản tiền đã được giải quyết tại bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật và đang được tổ chức thi hành, thì cơ quan thi hành án không ra quyết
định thi hành án mà có văn bản kiến nghị người có thẩm quyền xem xét lại
theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định có tuyên tổng hợp hình
phạt tiền.
Khi có bản án, quyết định của Toà án chấp nhận yêu cầu của đương sự về thay
đổi mức cấp dưỡng, người cấp dưỡng mà vụ việc đang được cơ quan thi hành án tổ
chức thi hành thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án ra quyết định thu hồi quyết định
thi hành án đã ban hành và ra quyết định thi hành án theo bản án,
quyết định mới. Việc thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện bắt đầu từ thời điểm được xác
định tại bản án, quyết định mới của Tòa án mới, trừ trường hợp các bên
có thoả thuận khác.
5. Trong trường hợp bản án, quyết định đã được thi hành một phần hoặc toàn bộ
mà có kháng nghị thì cơ quan thi hành án có trách nhiệm thông
báo ngay cho người đã kháng nghị biết kết quả đã thi hành. Toà án xét
xử giám đốc thẩm, tái thẩm có trách nhiệm gửi thông báo về kết quả thi
hành án nói trên cho cơ quan được giao điều tra lại hoặc Toà án được giao
xét xử lại. Khi xét xử lại và quyết định về quyền lợi, nghĩa vụ của đương sự, Toà
án có trách nhiệm xem xét kết quả thi hành án đã được báo cáo
để tính toán, đối trừ phù hợp với kết quả thi hành án và nghĩa vụ, quyền
lợi của các bên đương sự. Khi bản án, quyết định mới của Toà án được đưa
ra thi hành thì cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án theo quy định của
pháp luật. Trường hợp phần đã thi hành cho người được thi hành án vượt quá so với bản
án, quyết định mới thì cơ quan thi hành án có quyền buộc người đó giao
trả lại cho cơ quan thi hành án để tổ chức thi hành theo bản án, quyết định mới.
Trường hợp bản án, quyết định bị kháng nghị đã được tổ chức thi hành một phần
thông qua bán đấu giá nay bị huỷ, sửa thì cơ quan thi hành án tiếp tục hoàn
thiện thủ tục theo quy định của pháp luật cho bên mua đấu giá, trừ trường hợp thủ tục
bán đấu giá vi phạm quy định của pháp luật.
Điều 3. Thông báo về thi hành án
1. Trường hợp do đường sá xa xôi, giao thông không thuận tiện, người được thông
báo có nhiều địa chỉ liên lạc, nơi ở không cố định, thường vắng mặt ở nhà
vào giờ hành chính, đương sự đang bị giam, tạm giam và các trường hợp khác
mà việc thông báo trực tiếp có khó khăn thì việc thông báo được
thực hiện qua đường bưu điện bằng thư bảo đảm.
2. Trường hợp thông báo bằng điện tín, fax, email hoặc hình thức khác theo yêu
cầu của người được nhận thông báo thì Chấp hành viên phải lưu vào hồ
sơ thi hành án văn bản thể hiện yêu cầu, văn bản cần thông báo và văn bản
thể hiện kết quả thông báo như bức điện tín, thư điện tử, báo cáo bản fax
đã được gửi.
3. Thông báo đối với người đang bị giam, tạm giam được thực hiện theo địa chỉ nơi người
đó đang bị giam, tạm giam. Giám thị trại giam, tạm giam có trách nhiệm giao văn bản
thông báo cho người được thông báo.
4. Trường hợp có uỷ quyền thì việc thông báo các văn bản về thi hành án
được thực hiện đối với người được uỷ quyền.
5. Trường hợp giao thông báo qua người khác thì người thông báo phải lập biên
bản ghi rõ họ tên, chức vụ, địa chỉ của người nhận thay; ngày, giờ nhận thay; quan hệ
giữa họ với người được thông báo (nếu có); cam kết giao tận tay hoặc thông báo
ngay cho người được thông báo. Biên bản có chữ ký của người nhận và người
giao thông báo.
6. Nếu người được nhận thông báo từ chối hoặc cố tình không nhận thông báo
thì người thông báo lập biên bản về việc từ chối và nêu rõ lý
do có xác nhận của người làm chứng. Người được thông báo được coi là
đã được thông báo hợp lệ.
7. Việc niêm yết được thực hiện tại trụ sở cơ quan thi hành án dân sự, trụ sở Uỷ
ban nhân dân cấp xã nơi người được thông báo cư trú hoặc cư trú cuối
cùng và tại nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được thông
báo. Việc xác định nơi cư trú được thực hiện theo pháp luật về cư trú.
Trường hợp niêm yết để bán đấu giá tài sản thì nơi niêm yết thực hiện
theo quy định của pháp luật về bán đấu giá.
Điều 4. Xác minh điều kiện thi hành án
1. Việc xác minh đối với tài sản thuộc diện phải đăng ký, chuyển quyền sở hữu, sử
dụng tài sản cần căn cứ vào hợp đồng mua bán, chuyển đổi, chuyển nhượng hoặc tặng
cho, giấy chứng nhận về quyền sở hữu, sử dụng tài sản; thông qua chủ sở hữu, chính
quyền địa phương, cơ quan chức năng hoặc người làm chứng như xác nhận của người bán,
của chính quyền địa phương, cơ quan chức năng về việc mua bán tài sản.
2. Đối với trường hợp đình chỉ thi hành án do người được thi hành án chết
mà không có người thừa kế thì phải xác minh qua chính quyền địa phương,
cơ quan quản lý hộ khẩu, nơi cư trú hoặc nơi cư trú cuối cùng của người được
thi hành án. Kết quả xác minh thông báo công khai trên phương tiện thông
tin đại chúng ở trung ương để người có quyền, nghĩa vụ liên quan biết và bảo vệ
lợi ích của họ. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo công khai hợp
lệ mà không có người khiếu nại thì được coi là có căn cứ đình chỉ
thi hành án.
Điều 5. Thi hành án đối với nghĩa vụ liên đới
1. Trường hợp bản án, quyết định của Toà án mà theo đó nghĩa vụ liên đới
không xác định rõ phần nghĩa vụ của từng người, thì cơ quan thi hành án
yêu cầu một hoặc một số người có điều kiện thi hành án thực hiện toàn bộ
nghĩa vụ liên đới.
2. Trường hợp bản án, quyết định của Toà án mà theo đó nghĩa vụ liên đới
xác định rõ phần của từng người và họ đều có điều kiện thi hành án,
thì cơ quan thi hành án yêu cầu mỗi người thực hiện phần nghĩa vụ của mình.
3. Nếu người có nghĩa vụ liên đới không có điều kiện thi hành án, thì
cơ quan thi hành án yêu cầu những người có điều kiện thi hành án thực hiện
thay phần nghĩa vụ của người đó. Người đã thực hiện thay phần nghĩa vụ thi hành án
có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ liên đới khác thanh toán lại phần nghĩa
vụ mà người đó đã thực hiện thay cho họ theo quy định tại Điều 298 của Bộ luật dân
sự.
Điều 6. Kê biên, xử lý tài sản để thi hành án
1. Kể từ thời điểm có bản án, quyết định sơ thẩm mà người phải thi hành án
bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố tài sản của mình
cho người khác, không thừa nhận tài sản là của mình mà không sử dụng
khoản tiền thu được để thi hành án thì tài sản đó vẫn bị kê biên
để thi hành án, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Nếu có tranh
chấp thì Chấp hành viên hướng dẫn đương sự thực hiện việc khởi kiện tại Toà
án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày được
thông báo mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử
lý tài sản để thi hành án.
Kể từ thời điểm có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường
hợp đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn, biện pháp khẩn cấp tạm thời, biện pháp
bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế thi hành án mà tài sản bị
bán, chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, cầm cố cho người khác,
người phải thi hành án không thừa nhận tài sản là của mình thì bị
kê biên, xử lý để thi hành án.
2. Thủ tục giải quyết yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự, đương sự về việc xác định quyền sở
hữu, phân chia tài sản hoặc giải quyết tranh chấp về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản phát sinh trong quá trình thi hành án thuộc thẩm quyền của Toà án
theo khoản 4 Điều 179 Luật thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định của Bộ luật
tố tụng dân sự.
Hết thời hạn 30 ngày, kể từ ngày thông báo mà không có người khởi kiện
thì cơ quan thi hành án xử lý tài sản theo quy định của pháp luật, trường
hợp có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án chỉ xử lý tài sản khi có
bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
3. Đối với tài sản đã được cầm cố, thế chấp hợp pháp mà có giá trị
bằng hoặc nhỏ hơn nghĩa vụ phải thanh toán theo hợp đồng cầm cố, thế chấp thì Chấp hành viên phải thông báo cho người nhận cầm cố, thế chấp biết nghĩa vụ của người phải
thi hành án; yêu cầu người nhận cầm cố, thế chấp thông báo để cơ quan thi hành
án kê biên tài sản đã cầm cố, thế chấp khi người vay thanh toán hợp đồng
đã ký hoặc để kê biên phần tiền, tài sản còn lại (nếu có) sau khi
tài sản bị bên nhận cầm cố, thế chấp xử lý để thanh toán hợp đồng đã ký.
4. Trường hợp người phải thi hành án đề nghị kê biên tài sản cụ thể trong số
nhiều tài sản mà việc đề nghị không gây trở ngại cho việc thi hành án và
tài sản đó đủ để thi hành án và các chi phí liên quan thì
Chấp hành viên lập biên bản giải thích cho đương sự về việc phải chịu mọi chi phí
liên quan đối với việc xử lý tài sản đó và tiến hành kê biên tài
sản để thi hành án. Đương sự không bị hạn chế quyền thực hiện giao dịch đối với
các tài sản khác còn lại.
Trường hợp tài sản mà người phải thi hành án đề nghị kê biên không
đủ để thi hành các nghĩa vụ thi hành án và các chi phí liên quan
thì Chấp hành viên phải yêu cầu người phải thi hành án không được thực
hiện giao dịch đối với những tài sản khác còn lại.
5. Cơ quan thi hành án chỉ kê biên tài sản khác của doanh nghiệp phải thi hành
án nếu sau khi đã khấu trừ số dư (tiền Việt Nam, ngoại tệ); xử lý vàng, bạc, kim
khí quý, đá quý, giấy tờ có giá khác; khấu trừ tài sản của người
phải thi hành án đang do cơ quan, doanh nghiệp, cá nhân khác giữ mà vẫn không
đủ để thi hành án.
Điều 7. Chuyển giao quyền và nghĩa vụ thi hành án
1. Trường hợp thi hành nghĩa vụ về trả tài sản mà người phải thi hành án đã
chết nhưng có người đang trực tiếp quản lý, sử dụng tài sản đó thì cơ quan
thi hành án ấn định thời hạn không quá 30 ngày để người quản lý, sử dụng
tài sản của người phải thi hành án giao tài sản cho người được thi hành án.
Hết thời hạn này mà họ không thực hiện hoặc tài sản không có người quản
lý, sử dụng trực tiếp thì cơ quan thi hành án tổ chức giao tài sản, kể cả cưỡng
chế giao tài sản cho người được thi hành án theo quy định của pháp luật.
2. Trường hợp người phải thi hành nghĩa vụ về thanh toán tiền đã chết mà có
để lại tài sản thì cơ quan thi hành án có văn bản thông báo, ấn định
thời hạn không quá 30 ngày để người thừa kế hoặc người quản lý di sản của người
phải thi hành án thoả thuận thực hiện. Hết thời hạn này, nếu người thừa kế hoặc người
quản lý di sản không thoả thuận được việc thực hiện nghĩa vụ của người phải thi hành
án, thì cơ quan thi hành án áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án,
biện pháp cưỡng chế thi hành án đối với tài sản để lại của người phải thi hành
án để đảm bảo thi hành án, đồng thời ấn định thời hạn 30 ngày kể từ ngày
thông báo để những người liên quan đến tài sản thực hiện quyền khởi kiện. Hết
thời hạn này mà không có người khởi kiện thì cơ quan thi hành án xử
lý tài sản để thi hành án theo quy định của pháp luật.
Chương II
QUAN HỆ PHỐI HỢP TRONG CÔNG TÁC THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
Điều 8. Kiểm sát hoạt động thi hành án
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát và trình tự, thủ tục thực hiện kiểm sát
việc tuân theo pháp luật đối với hoạt động thi hành án được thực hiện theo quy định
của Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân và pháp luật về thi hành án.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện việc kiểm sát hoạt động thi hành
án của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và cấp dưới theo kế hoạch kiểm
sát định kỳ được xây dựng từ đầu năm hoặc đột xuất theo yêu cầu công tác.
Kết thúc việc kiểm sát hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự, Viện kiểm sát
nhân dân phải có kết luận kiểm sát.
Khi phát hiện quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, của
Chấp hành viên có vi phạm pháp luật, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
phải ban hành văn bản kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.
Điều 9. Gửi quyết định về thi hành án
1. Cơ quan thi hành án dân sự giao trực tiếp hoặc gửi bằng đường bưu điện các quyết
định về thi hành án cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp trong thời hạn 03
ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định, trừ kế hoạch cưỡng chế thi hành án
thì phải được gửi ngay.
2. Các quyết định về giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự của
Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân
dân tối cao (thông qua Vụ kiểm sát thi hành án) để thực hiện kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân
sự.
Điều 10. Công tác phối hợp trong thi hành án
1. Định kỳ hàng năm, Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án
nhân dân tối cao và Bộ Tư pháp tổ chức họp liên ngành vào cuối tháng
9 hoặc đầu tháng 10 để rút kinh nghiệm, bàn biện pháp khắc phục thiếu sót, thống
nhất chỉ đạo công tác thi hành án.
2. Mỗi năm ít nhất một lần, Vụ kiểm sát thi hành án thuộc Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Tổng cục Thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và Toà chuyên
trách của Toà án nhân dân tối cao phối hợp kiểm tra công tác thi hành
án dân sự và công tác phối hợp trong thi hành án dân sự ở địa phương;
kịp thời kiểm tra và thống nhất biện pháp giải quyết đối với những vụ việc thi hành
án có vướng mắc hoặc có quan điểm khác nhau. Thời gian, kế hoạch tổ chức do Tổng
cục Thi hành án dân sự chủ động.
3. Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân, Toà án nhân dân và cơ quan
thi hành án dân sự tại các địa phương phải thường xuyên phối hợp để thực
hiện tốt công tác thi hành án. Khi có vướng mắc thì Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự, Chánh án Toà án nhân dân và Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân các cấp kịp thời báo cáo về Bộ Tư pháp, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao để có biện pháp
thống nhất giải quyết.
Chương III
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 11. Hiệu lực thi hành
Thông tư liên tịch này có hiệu lực kể từ ngày 15 tháng 9 năm 2010 và thay
thế các văn bản sau đây: Thông tư liên ngành số 981/TTLN ngày 21 tháng 9 năm
1993 của Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Toà án nhân dân
tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định của Pháp lệnh thi hành án dân sự,
Thông tư liên tịch số 12/2001/TTLT-BTP-VKSTC ngày 26 tháng 2 năm 2001 của Bộ Tư pháp,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao hướng dẫn thực hiện một số quy định pháp luật thi
hành án dân sự.
Điều 12. Tổ chức thực hiện
Quá trình thực hiện, nếu có vướng mắc hoặc cần bổ sung, sửa đổi thì các cơ
quan thi hành án dân sự, Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân
dân các cấp kịp thời báo cáo về Bộ Tư pháp, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, Toà án nhân dân tối cao để có biện pháp giải quyết./.