TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO - BỘ LAO ĐỘNG - THƯƠNG BINH VÀ XÃ HỘI - VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TỐI CAO Số: 01/2010/TTLT-TANDTC-BLĐTBXH-VKSNDTC | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 18 tháng 05 năm 2010 | ||||||||||||||||
THÔNG TƯ LIÊN TỊCH
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết tranh
chấp hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng
tại Tòa án nhân dân
Căn cứ Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng ngày 29
tháng 11 năm 2006;
Căn cứ Bộ luật tố tụng dân sự ngày 15 tháng 6 năm 2004;
Căn cứ Bộ luật dân sự ngày 14 tháng 6 năm 2005;
Để áp dụng đúng và thống nhất các quy định của pháp luật trong quá trình
giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng tại Tòa án nhân dân, Toà án nhân dân tối cao, Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất hướng
dẫn như sau:
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
Thông tư liên tịch này hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong
quá trình giải quyết tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh cho người lao động đi làm
việc ở nước ngoài theo hợp động (sau đây viết tắt là hợp đồng bảo lãnh) giữa
doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài với người
bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh quy định tại Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở
nước ngoài theo hợp đồng và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTP
ngày 11-7-2007 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết
một số vấn đề về nội dung hợp đồng bảo lãnh và việc thanh lý hợp đồng bảo lãnh
cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng là một loại tranh chấp dân
sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân quy định tại khoản 3 Điều 25
của Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Nếu hợp đồng bảo lãnh được xác lập trước ngày 01-01-2006 (ngày Bộ luật dân
sự năm 2005 có hiệu lực) mà phát sinh tranh chấp thì áp dụng Nghị quyết số 45/2005/QH11
ngày 14-6-2005 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật dân sự năm 2005 để giải quyết.
2. Nếu hợp đồng bảo lãnh được xác lập từ ngày 01-01-2006 đến trước ngày 01-7-2007
(ngày Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng có hiệu
lực) mà phát sinh tranh chấp thì áp dụng Bộ luật dân sự năm 2005; các văn
bản quy phạm pháp luật hướng dẫn áp dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2005; Nghị
định số 141/2005/NĐ-CP ngày 11-11-2005 của Chính phủ về quản lý lao động Việt Nam làm
việc ở nước ngoài; và hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 06/2006/TTLT-BLĐTBXH-BTP
ngày 07-07-2006 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp hướng dẫn việc
bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài và các văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan để giải quyết.
3. Nếu hợp đồng bảo lãnh được xác lập từ ngày 01-7-2007 trở đi mà phát sinh tranh
chấp, thì áp dụng quy định của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng; hướng dẫn tại Thông tư liên tịch số 08/2007/TTLT-BLĐTBXH-BTP ngày 11-7-2007 của
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tư pháp hướng dẫn chi tiết một số vấn đề
về nội dung hợp đồng bảo lãnh và việc thanh lý hợp đồng bảo lãnh cho người lao
động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng; hướng dẫn tại Thông tư liên tịch
này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan để giải quyết.
Trong quá trình giải quyết vụ án tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh cần có sự
phối hợp giữa Toà án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Cục Quản lý
lao động ngoài nước, các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội) nơi thụ lý vụ án, và các cơ quan, tổ chức liên quan để
thực hiện các việc sau đây:
1. Khi có vấn đề chuyên môn trong lĩnh vực đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
mà Toà án nhân dân đã có văn bản yêu cầu trao đổi ý kiến thì
Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội), các
Sở Lao động - Thương binh và Xã hội có trách nhiệm trả lời bằng văn bản về các
vấn đề mà Toà án yêu cầu.
2. Khi có yêu cầu bằng văn bản của Tòa án hoặc Viện kiểm sát có thẩm quyền
giải quyết vụ án, Cục Quản lý lao động ngoài nước (Bộ Lao động - Thương binh và
Xã hội) có trách nhiệm cung cấp các tài liệu liên quan đến bảo lãnh
cho người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài mà Cục Quản lý lao động ngoài
nước (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) đang lưu giữ theo quy định của pháp luật.
3. Trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án có thể áp dụng quy định tại
Điều 93 của Bộ luật tố tụng dân sự về ủy thác thu thập chứng cứ để yêu cầu Ban Quản
lý lao động Việt Nam ở nước ngoài (đối với địa bàn có Ban Quản lý lao động)
hoặc của cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài (đối với địa bàn không
có Ban Quản lý lao động); các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan phối hợp
xác minh, thu thập chứng cứ. Trong trường hợp cơ quan, tổ chức, cá nhân được yêu cầu
không cung cấp được chứng cứ cho Tòa án thì phải thông báo bằng văn bản
có ghi rõ lý do của việc không cung cấp được chứng cứ cho Tòa án đã
yêu cầu biết.
4. Khi có yêu cầu, Toà án đã giải quyết vụ án có trách nhiệm gửi
bản án, quyết định cho cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có yêu cầu theo quy
định của pháp luật.
THỦ TỤC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG BẢO LÃNH TẠI TOÀ ÁN NHÂN DÂN
Doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng;
người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng quy định
tại khoản 1 và khoản 3 Điều 2 của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền khởi kiện vụ án
dân sự về hợp đồng bảo lãnh tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện được thực hiện theo quy định tại Điều 165 của
Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12-5-2006
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành các
quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Toà án cấp sơ thẩm"
của Bộ luật tố tụng dân sự.
Trong trường hợp vì lý do khách quan mà người khởi kiện không thể nộp đầy đủ
ngay các tài liệu, chứng cứ, thì họ phải nộp các tài liệu, chứng cứ ban đầu
để chứng minh cho việc khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp.
Tài liệu, chứng cứ ban đầu người khởi kiện phải nộp cho Tòa án là bản chính
hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hợp đồng bảo lãnh, phụ lục hợp
đồng bảo lãnh (nếu có). Trong quá trình giải quyết vụ án người khởi kiện phải
tự mình bổ sung hoặc bổ sung theo yêu cầu của Toà án các tài liệu, chứng
cứ khác để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.
1. Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Toà án giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh
là hai năm, kể từ ngày quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, tổ chức
sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài, người bảo lãnh cho người
lao động đi làm việc ở nước ngoài hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bị
xâm phạm.
Việc xác định thời hiệu khởi kiện, thời điểm bắt đầu thời hiệu khởi kiện được thực hiện
theo hướng dẫn tại mục 2 Phần IV Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm
phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần
thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Trường hợp tranh chấp hợp đồng bảo lãnh mà các bên không thoả thuận được
với nhau về thời hạn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh, nhưng theo quy định tại Điều 56 của Luật Người
lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng, thì doanh nghiệp, tổ chức
sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài có quyền ấn định thời hạn
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong một thời hạn hợp lý, khi hết thời hạn đã được
thông báo đó mà người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước
ngoài không thực hiện, hoặc thực hiện không đúng, không đầy đủ thì ngày
hết thời hạn đã được thông báo là ngày quyền và lợi ích hợp pháp
của doanh nghiệp, tổ chức sự nghiệp đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài bị xâm
phạm.
Ví dụ: doanh nghiệp A có ký kết hợp đồng bảo lãnh với người bảo lãnh B về
việc đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài và đã phát sinh việc thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng hai bên không thỏa thuận được với nhau về thời hạn thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Ngày 22-9-2009, người bảo lãnh B nhận được yêu cầu của doanh
nghiệp A về việc phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh trong thời hạn ba mươi ngày. Hết ngày
22-10-2009, người bảo lãnh B không thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo thông báo của
doanh nghiệp A thì ngày 22-10-2009 là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của
doanh nghiệp A bị xâm phạm và thời hiệu khởi kiện là 2 năm được bắt đầu tính từ
ngày 23-10-2009 cho đến hết ngày 23-10-2011.
1. Tòa án nhân dân cấp huyện có thẩm quyền thụ lý, giải quyết tranh chấp về
hợp đồng bảo lãnh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 33 của Bộ luật tố tụng dân sự.
2. Trong những trường hợp sau đây, tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh thuộc thẩm quyền giải quyết
của Tòa án nhân dân cấp tỉnh theo quy định tại khoản 3 Điều 33, khoản 2 Điều 34 của
Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại mục 4 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày
31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự:
a) Tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh mà người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo
hợp đồng, người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở nước ngoài theo quy định tại tiêu mục 4.1
mục 4 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án
nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy
định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự.
b) Tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh mà có tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải
uỷ thác tư pháp cho cơ quan lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Tòa án
nước ngoài quy định tại tiểu mục 4.2 và 4.3 mục 4 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày
31-3-2005 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự.
c) Tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân
cấp huyện mà Toà án nhân dân cấp tỉnh lấy lên để giải quyết quy định tại
khoản 2 Điều 34 của Bộ luật tố tụng dân sự.
3. Trường hợp không thay đổi thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo lãnh của Tòa
án nhân dân được thực hiện theo quy định tại Điều 412 của Bộ luật tố tụng dân
sự và hướng dẫn tại tiểu mục 4.4 mục 4 Phần I Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31-3-2005
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự.
1. Việc thu thập chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ án được thực hiện theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự và hướng dẫn tại Nghị quyết số 04/2005/HĐTP ngày 17-9-2005
của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn thi hành một số
quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về "Chứng minh và chứng cứ".
2. Tuỳ thuộc vào nội dung vụ án tranh chấp về hợp đồng bảo lãnh mà Tòa án
có thể yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp cho Toà án các
giấy tờ, tài liệu sau đây:
a) Các giấy tờ, tài liệu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực
hợp pháp liên quan đến hợp đồng bảo lãnh như:
- Hợp đồng bảo lãnh; phụ lục hợp đồng bảo lãnh (nếu có); văn bản thanh lý hợp
đồng bảo lãnh (nếu có); văn bản huỷ bỏ việc bảo lãnh (nếu có); văn bản thỏa
thuận chấm dứt bảo lãnh (nếu có);
- Hợp đồng đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài; phụ lục hợp đồng đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài (nếu có); văn bản thanh lý hợp đồng đưa người
lao động đi làm việc ở nước ngoài (nếu có).
b) Các giấy tờ, tài liệu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực
hợp pháp liên quan đến việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh như:
- Hợp đồng cầm cố, thế chấp tài sản hoặc ký quỹ;
- Văn bản chứng minh khả năng tài chính, năng lực, uy tín của người bảo lãnh cho người
lao động đi làm việc ở nước ngoài.
c) Các giấy tờ, tài liệu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực
hợp pháp liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo lãnh như:
- Văn bản thông báo về nơi làm việc, tình hình việc làm, thu nhập, sức khoẻ
điều kiện làm việc, điều kiện sinh hoạt của người lao động nếu người bảo lãnh cho người
lao động đi làm việc ở nước ngoài có yêu cầu;
- Văn bản thông báo về việc người lao động vi phạm hợp đồng hoặc bỏ trốn; văn bản chấm
dứt hợp đồng lao động của người sử dụng lao động;
- Văn bản xử lý vi phạm đối với người lao động của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của
nước ngoài hoặc của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam tại nước ngoài theo quy định
của Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (nếu có);
- Các chứng cứ chứng minh về thiệt hại do người lao động gây ra;
- Văn bản thông báo cho người bảo lãnh cho người lao động đi làm việc ở nước về
việc thực hiện nghĩa vụ thay cho người lao động.
d) Các giấy tờ, tài liệu khác có liên quan đến việc giải quyết vụ án.
HIỆU LỰC THI HÀNH
1. Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành sau bốn mươi lăm ngày kể từ ngày
ký ban hành.
2. Các vụ án trước đây đã được giải quyết theo đúng các quy định của pháp
luật mà bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật
thì không áp dụng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch này để kháng nghị
theo trình tự giám đốc thẩm, tái thẩm trừ trường hợp có những căn cứ khác.
Các vụ án đang được giải quyết thì Tòa án áp dụng hướng dẫn tại Thông
tư liên tịch này để giải quyết.
Trong quá trình áp dụng hướng dẫn tại Thông tư liên tịch này, nếu có
vướng mắc hoặc phát sinh những vấn đề mới, thì Tòa án nhân dân các
cấp, các Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, Viện kiểm sát nhân dân các
cấp cần báo cáo bằng văn bản về Toà án nhân dân tối cao, Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Viện kiểm sát nhân dân tối cao để có sự giải thích
hoặc hướng dẫn sửa đổi, bổ sung kịp thời./. | |||||||||||||||||
|