TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO Số: 01/2001/NQ-HĐTP | CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2001 | |||||||||||||||||||||||||||||||
NGHỊ QUYẾT
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều
139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật Hình sự năm 1999
____________________
HỘI ĐỒNG THẨM PHÁN TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
Căn cứ vào Điều 20 và Điều 21 Luật Tổ chức Toà án nhân dân năm 1992 (được
sửa đổi, bổ sung ngày 28-12-1993 và ngày 28-10-1995);
Để áp dụng đúng và thống nhất các điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật
Hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
21-12-1999 và có hiệu lực từ ngày 01-7-2000;
QUYẾT NGHỊ:
Hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật
Hình sự được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày
21-12-1999 (sau đây viết tắt là Bộ luật Hình sự) như sau:
1. Khi áp dụng các điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 BLHS để quyết định hình phạt, về
nguyên tắc chung Toà án phải căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất
và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội,
các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự.
2. Khi áp dụng điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật Hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài
sản cần chú ý:
2.1. Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (sau đây
gọi tắt là tình tiết tăng nặng) và không có tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự (sau đây gọi tắt là tình tiết giảm nhẹ) hoặc vừa có tình
tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh giá tính chất tăng nặng
và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt người phạm tội mức án tương
ứng với giá trị tài sản bị chiếm đoạt như sau:
a. Xử phạt tù từ 12 năm đến 20 năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm
trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng.
b. Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ năm
trăm triệu đồng đến dưới bốn tỷ năm trăm triệu đồng;
c. Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn tỷ năm trăm
triệu đồng trở lên.
2.2. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng
nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất
giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án
được hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 Mục 2 này như sau:
a. Xử phạt tù từ bảy năm đến dưới mười hai năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá
trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng (trường hợp này phải có
ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự);
b. Xử phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá
trị từ một tỷ năm trăm triêụ đồng đến dưới bốn tỷ năm trăm triệu đồng;
c. Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ bốn tỷ năm
trăm triệu đồng trở lên.
2.3. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm
nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất
tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức
án được hướng dẫn tại tiểu mục 2.1 Mục 2 này như sau:
a. Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu
đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;
b. Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ năm trăm
triệu đồng trở lên.
2.4. Trong trường hợp theo hướng dẫn tại các tiểu mục 2.1 và 2.3 Mục 2 này người phạm
tội phải bị xử phạt tử hình, nhưng người phạm tội đã bồi thường được một phần đáng
kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt (hoặc người thân thích, ruột thịt... của người
phạm tội đã bồi thường thay cho người phạm tội), thì có thể không xử phạt tử
hình người phạm tội và tuỳ vào số tiền đã bồi thường được mà có
thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn.
Được coi là đã bồi thường được một phần đáng kể giá trị tài sản bị chiếm
đoạt nếu:
a. Đã bồi thường được ít nhất một phần hai giá trị tài sản bị chiếm đoạt;
b. Đã bồi thường được từ một phần ba đến dưới một phần hai giá trị tài sản bị
chiếm đoạt, nếu có căn cứ chứng minh rằng người phạm tội (hoặc người thân thích, ruột
thịt... của người phạm tội) đã thực hiện mọi biện pháp để bồi thường giá trị tài
sản bị chiếm đoạt (đã bán hết nhà ở, tài sản có giá trị; cố gắng
vay, mượn... đến mức tối đa).
3. Khi áp dụng khoản 4 Điều 193 Bộ luật Hình sự về tội sản xuất trái phép chất
ma tuý và khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự về tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán
trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma tuý cần chú ý;
3.1. Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết
giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh
giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt
người phạm tội mức án tương ứng với trọng lượng chất ma tuý như sau:
a. Xử phạt hai mươi năm tù nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ 5 kilôgam đến dưới mười
kilôgam;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ một trăm gam đến dưới ba trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây coca có trọng lượng từ bảy mười lăm kilôgam
đến dưới hai trăm kilôgam (đối với Điều 194 Bộ luật Hình sự);
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ sáu trăm kilôgam đến dưới một nghìn
năm trăm kilôgam (đối với Điều 194 Bộ luật Hình sự):
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một trăm năm mươi kilôgam đến dưới bốn trăm năm
mươi kilôgam (đối với Điều 194 Bộ luật Hình sự);
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới chín
trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ bảy trăm năm mươi mililít đến dưới ha nghìn
mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương
đương với số lượng của một trong các chất ma tuý thuộc điểm a này theo cách tính
được hướng dẫn tại tiểu mục 3.2 Mục 3 này.
b. Xử phạt tù chung thân nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ mười kilôgam đến dưới
hai mươi kilôgam;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ ba trăm gam đến dưới sáu trăm gam;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây coca có trọng lượng từ hai trăm kilôgam
đến dưới sáu trăm kilôgam (đối với Điều 194 BLHS);
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ một nghìn năm trăm kilogam đến dưới bốn nghìn
năm trăm kilôgam (đối với Điều 194 BLHS);
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ bốn trăm năm mươi kilôgam đến dưới một nghìn
hai trăm kilôgam (đối với Điều 194 Bộ luật Hình sự);
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ chín trăm gam đến dưới
hai nghìn năm trăm gam;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ hai nghìn mililít đến dưới năm nghìn
mililít;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương
đương với số lượng của một trong các chất ma tuý thuộc điểm b này theo cách tính
được hướng dẫn tại tiểu mục 3.2 Mục 3 này.
c. Xử phạt tử hình nếu:
- Nhựa thuốc phiện, nhựa cần sa hoặc cao côca có trọng lượng từ hai mươi kilôgam trở lên;
- Hêrôin hoặc côcain có trọng lượng từ sáu trăm gam trở lên;
- Lá, hoa, quả cây cần sa hoặc lá cây côca có trọng lượng từ sáu trăm
kilôgam trở lên (đối với Điều 194 Bộ luật Hình sự);
- Quả thuốc phiện khô có trọng lượng từ bốn nghìn năm trăm kilôgam trở lên (đối
với Điều 194 BLHS);
- Quả thuốc phiện tươi có trọng lượng từ một nghìn hai trăm kilôgam trở lên (đối
với Điều 194 Bộ luật Hình sự);
- Các chất ma tuý khác ở thể rắn có trọng lượng từ hai nghìn năm trăm gam trở
lên;
- Các chất ma tuý khác ở thể lỏng từ năm nghìn mililít trở lên;
- Có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các chất đó tương
đương với số lượng của một trong các chất ma tuý thuộc điểm c này theo cách tính
được hướng dẫn tại tiểu mục 3.2 Mục 3 này.
3.2. Tình tiết "có từ hai chất ma tuý trở lên mà tổng số lượng của các
chất đó tương đương với số lượng chất ma tuý quy định tại một trong các điểm từ..."
quy định tại điểm đ khoản 4 Điều 193 và điểm h khoản 4 Điều 194 BLHS được tính như sau:
a. Trường hợp thứ nhất.
Nếu các chất ma tuý đó đều được quy định trong cùng một điểm của khoản 4 Điều
193 hoặc của khoản 4 Điều 194, thì cộng trọng lượng các chất ma tuý đó lại với
nhau và so sánh với trọng lượng được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này để xem
xét người phạm tội phải bị xử phạt mức hình phạt nào.
Ví dụ 1: Một người sản xuất 9 kilôgam nhựa thuốc phiện và 17 kilôgam nhựa cần sa. Do
nhựa thuốc phiện và nhựa cần sa đều được quy định trong cùng điểm a Khoản 4 Điều 193, cho
nên cần cộng trọng lượng nhựa thuốc phiện và nhựa cần sa lại với nhau bằng 26 kilôgam
(9 kg + 17 kg = 26 kg). Đối chiếu với trọng lượng được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này thì
phải áp dụng điểm đ khoản 4 Điều 193 để xử phạt người phạm tội mức án tử hình.
Ví dụ 2: Một người mua bán 115 gam Hêrôin và 125 gam Côcain. Do Hêrôin và
Côcain đều được quy định trong cùng điểm b khoản 4 Điều 194, cho nên cộng trọng lượng
Hêrôin và Côcain lại với nhau bằng 240 gam (115 gam + 125 gam = 240 gam). Đối chiếu với trọng
lượng được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này thì phải áp dụng điểm b khoản 4
Điều 194 để xử phạt người phạm tội mức án 20 năm tù.
b. Trường hợp thứ hai
Nếu các chất ma tuý đó được quy định tại các điểm khác nhau của khoản 2, khoản
3, khoản 4 Điều 193 hoặc tại các điểm khác nhau của khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 194, thì
cách tính tổng số lượng của các chất ma tuý này tương đương với số lượng
của một trong các chất ma tuý quy định tại khoản 4 Điều 193 hoặc tại khoản 4 Điều 194 được
tiến hành theo trình tự sau đây:
b.1. Lần lượt lấy làm chuẩn từng chất ma tuý trong số các chất ma tuý mà người
phạm tội đã sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt.
Tính trọng lượng (số lượng) của các chất ma tuý còn lại trong số các chất
ma tuý mà người phạm tội đã sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái
phép hoặc chiếm đoạt tương ứng với bao nhiêu kilôgam (gam) hoặc mililít của chất ma
tuý đã lấy theo tỷ lệ trọng lượng (số lượng) tối thiểu của các chất ma tuý còn
lại với trọng lượng (số lượng) tối thiểu của chất ma tuý đã lấy làm chuẩn quy định
tại khoản 4 Điều 193 hoặc khoản 4 Điều 194 (xem ví dụ dưới đây).
b.2. Cộng trọng lượng (số lượng) của các chất ma tuý đã tính được tương đương
với trọng lượng (số lượng thực có của chất ma tuý đã lấy làm chuẩn thì
được tổng số lượng của các chất ma tuý người phạm tội đã sản xuất, tàng trữ,
vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt (tính tương đương với chất ma tuý
đã lấy làm chuẩn) (xem ví dụ dưới đây).
b.3. So sánh các kết quả tính tổng số lượng của các chất ma tuý mà người
phạm tội đã sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt
tương đương (theo từng chất ma tuý đã lấy làm chuẩn) với nhau và với hướng dẫn
tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này. Nếu tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương theo
chất ma tuý nào mà có lợi cho người phạm tội khi quyết định hình phạt, thì
lấy tổng số lượng đó (xem ví dụ dưới đây).
Ví dụ: Một người mua bán 4 kilôgam thuốc phiện, 90 gam hêrôin và 150 gam chất
ma tuý khác ở thể rắn. Cách tính tổng số lượng của các chất ma tuý này
như sau:
- Thứ nhất: lấy thuốc phiện làm chuẩn để tính 90 gam hêrôin và 150 gam chất ma tuý
khác ở thể rắn tương đương với bao nhiêu kilôgam thuốc phiện (tính theo tỷ lệ trọng
lượng tối thiểu của thuốc phiện và hêrôin, của thuốc phiện và chất ma tuý khác
ở thể rắn quy định tại khoản 4 Điều 194); cụ thể là:
* Đối với Hêrôin:
100 gam Hêrôin tương đương với 5 kilôgam thuốc phiện.
90 gam Hêrôin tương đương với X kilôgam thuốc phiện.
* Đối với chất ma tuý khác ở thể rắn:
300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với 5 kilôgam thuốc phiện.
150 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với Y kilôgam thuốc phiện.
Cộng trọng lượng của Hêrôin và chất ma tuý khác ở thể rắn vừa tính được
tương đương với trọng lượng thuốc phiện (X và Y) với trọng lượng thuốc phiện thực có là:
4,5 kilôgam + 2,5 kilôgam + 4 kilôgam = 11 kilôgam.
Như vậy, trong trường hợp này tổng số lượng của thuốc phiện, Hêrôin và chất ma tuý
khác ở thể rắn (các chất ma tuý mà người phạm tội đã mua bán trái
phép) tương đương với 11 kilôgam thuốc phiện (1).
- Thứ hai: lấy Hêrôin làm chuẩn để tính 4 kg thuốc phiện và 150 gam chất ma tuý
khác ở thể rắn tương đương với bao nhiêu gam Hêrôin (tính theo tỷ lệ trọng lượng
tối thiểu của Hêrôin và thuốc phiện, của Hêrôin và chất ma tuý khác
ở thể rắn quy định tại khoản 4 Điều 194) cụ thể là:
* Đối với thuốc phiện:
5 kilôgam thuốc phiện tương đương với 100 gam Hêrôin
4 kilôgam thuốc phiện tương đương với X gam Hêrôin
* Đối với các chất ma tuý khác ở thể rắn:
300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với 100 gam Hêrôin
150 gam chất ma tuý khác ở thể rắn tương đương với Y gam Hêrôin
Cộng trọng lượng của thuốc phiện và chất ma tuý khác ở thể rắn vừa tính được
tương đương với trọng lượng Hêrôin (X và Y) với trọng lượng Hêrôin thực có
là:
80 gam + 50 gam + 90 gam = 220 gam
Như vậy, trong trường hợp này tổng số lượng của thuốc phiện, Hêrôin và chất ma tuý
khác ở thể rắn (các chất ma tuý mà người phạm tội đã mua bán trái
phép) tương đương với 220 gam Hêrôin (2).
- Thứ ba: lấy chất ma tuý khác ở thể rắn làm chuẩn để tính 4 kg thuốc phiện và
90 gam Hêrôin tương đương với bao nhiêu gam chất ma tuý khác ở thể rắn (tính
theo tỷ lệ trọng lượng tối thiểu của chất ma tuý khác ở thể rắn và thuốc phiện, của
chất ma tuý khác ở thể rắn và Hêrôin quy định tại khoản 4 Điều 194); cụ thể
là:
* Đối với thuốc phiện:
5 kilôgam thuốc phiện tương đương với 300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
4 kilôgam thuốc phiện tương đương với X gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
* Đối với Hêrôin:
100 gam Hêrôin tương đương với 300 gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
90 gam Hêrôin tương đương với Y gam chất ma tuý khác ở thể rắn.
Cộng trọng lượng của thuốc phiện và Hêrôin vừa tính được tương đương với trọng
lượng chất ma tuý khác ở thể rắn (X và Y) với trọng lượng chất ma tuý khác
ở thể rắn thực có là:
240 gam + 270 gam + 150 gam = 660 gam
Như vậy, trong trường hợp này tổng số lượng thuốc phiện, Hêrôin và chất ma tuý
khác ở thể rắn (các chất ma tuý mà người phạm tội đã mua bán trái
phép) tương đương với 660 gam chất ma tuý khác ở thể rắn (3).
- So sánh các kết quả xác định tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương
(theo từng chất ma tuý đã lấy làm chuẩn), tức là so sánh các kết quả (1),
(2), (3) với nhau và với hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này cho thấy:
* Nếu lấy tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương với trọng lượng thuốc phiện (11kg)
thì áp dụng điểm h khoản 4 Điều 194 để xử phạt người phạm tội tù chung thân (nếu
không thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 và 3.4 Mục 3 này).
* Nếu lấy tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương với trọng lượng Hêrôin
(220 gam) hoặc với trọng lượng chất ma tuý khác ở thể rắn (660 gam) thì áp dụng điểm
h khoản 4 Điều 194 để xử phạt người phạm tội hai mươi năm tù (nếu không thuộc các trường
hợp được hướng dẫn tại tiểu mục 3.3 và 3.4 Mục 3 này).
Kết quả so sánh trên đây cho thấy nếu lấy tổng số lượng của các chất ma tuý
mà người phạm tội đã mua bán trái phép tương đương với trọng lượng Hêrôin
hoặc chất ma tuý khác ở thể rắn thì đều có lợi hơn cho người phạm tội; do đó,
trong ví dụ này có thể lấy tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương
với trọng lượng Hêrôin hoặc tổng số lượng của các chất ma tuý tương đương với
trọng lượng chất ma tuý khác ở thể rắn để xét xử đối với bị cáo.
3.3. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng
nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất
giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án
được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này như sau:
a. Xử phạt tù từ mười lăm năm đến dưới hai mươi năm nếu trọng lượng chất ma tuý thuộc
điểm a tiểu mục 3.1 Mục 3 này (trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS);
b. Xử phạt hai mươi năm tù nếu trọng lượng chất ma tuý thuộc điểm b tiểu mục 3.1 Mục 3 này;
c. Xử phạt tù chung thân nếu trọng lượng chất ma tuý thuộc điểm c tiểu mục 3.1 Mục 3 này.
3.4. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm
nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất
tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức
án được hướng dẫn tại tiểu mục 3.1 Mục 3 này như sau:
a. Xử phạt tù chung thân nếu trọng lượng chất ma tuý thuộc điểm a tiểu mục 3.1 Mục 3 này
(trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều
46 BLHS);
b. Xử phạt tử hình nếu trọng lượng chất ma tuý thuộc điểm b tiểu mục 3.1 Mục 3 này.
3.5. Trong trường hợp theo hướng dẫn tại các tiểu mục 3.1 và 3.4 Mục 3 này người phạm
tội phải bị xử phạt tử hình, nhưng nếu người phạm tội chỉ là người giúp sức, do
nể nang tình cảm, bị cưỡng bức hoặc vì hám lợi bất thời... mà tàng trữ, vận
chuyển chất ma tuý hộ thì có thể không xử phạt tử hình người phạm tội và
tuỳ từng trường hợp cụ thể mà có thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc
tù có thời hạn.
4. Khi áp dụng điểm a khoản 4 Điều 278 BLHS về tội tham ô tài sản cần chú ý:
4.1. Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết
giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh
giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau thì xử phạt
người phạm tội mức án tương ứng với giá trị tài sản bị chiếm đoạt như sau:
a. Xử phạt hai mươi năm tù nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu
đồng đến dưới một tỷ;
b. Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng
đến dưới ba tỷ đồng;
c. Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ ba tỷ đồng trở
lên.
4.2. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng
nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất
giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án
được hướng dẫn tại tiểu mục 4.1 Mục 4 này như sau:
a. Xử phạt tù từ mười lăm năm đến dưới hai mươi năm nếu tài sản bị chiếm đoạt có
giá trị từ năm trăm triệu đồng đến dưới một tỷ đồng (trường hợp này phải có ít
nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS);
b. Xử phạt hai mươi năm tù nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng
đến dưới ba tỷ đồng;
c. Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ ba tỷ đồng
trở lên.
4.3. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm
nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất
tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức
án được hướng dẫn tại tiểu mục 4.1 Mục 4 này như sau:
a. Xử phạt tù chung thân nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ năm trăm triệu
đồng đến dưới một tỷ đồng;
b. Xử phạt tử hình nếu tài sản bị chiếm đoạt có giá trị từ một tỷ đồng trở
lên.
4.4. Trong trường hợp theo hướng dẫn tại các tiểu mục 4.1 và 4.3 Mục 4 này thì người
phạm tội phải bị xử phạt tử hình, nhưng người phạm tội đã bồi thường được một phần
đáng kể giá trị tài sản bị chiếm đoạt (hoặc người thân thích, ruột thịt...
của người phạm tội đã bồi thường thay cho người phạm tội) thì có thể không xử
phạt tử hình người phạm tội và tuỳ vào số tiền đã bồi thường được mà
có thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn.
Được coi là đã bồi thường được một phần đáng kể giá trị tài sản bị chiếm
đoạt nếu:
a. Đã bồi thường được ít nhất một phần hai giá trị tài sản bị chiếm đoạt;
b. Đã bồi thường được từ một phần ba đến dưới một phần hai giá trị tài sản bị
chiếm đoạt, nếu có căn cứ chứng minh rằng người phạm tội (hoặc người thân thích, ruột
thịt... của người phạm tội) đã thực hiện mọi biện pháp để bồi thường giá trị tài
sản bị chiếm đoạt (đã bán hết nhà ở, tài sản có giá trị; cố gắng
vay, mượn... đến mức tối đa).
5. Khi áp dụng điểm a khoản 4 Điều 279 BLHS về tội nhận hối lộ và điểm a khoản 4 Điều 289
BLHS về tội đưa hối lộ cần chú ý:
5.1. Trong trường hợp không có tình tiết tăng nặng và không có tình tiết
giảm nhẹ hoặc vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ, nhưng đánh
giá tính chất tăng nặng và tính chất giảm nhẹ tương đương nhau, thì xử phạt
người phạm tội mức án tương ứng với của hối lộ như sau:
a. Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới
tám trăm triệu đồng;
b. Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng
đến dưới hai tỷ đồng.
c. Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên.
5.2. Trong trường hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ mà không có tình tiết tăng
nặng hoặc có ít tình tiết tăng nặng hơn, đồng thời đánh giá tính chất
giảm nhẹ và tính chất tăng nặng xét thấy có thể giảm nhẹ trách nhiệm hình
sự cho người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nhẹ hơn mức án
được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 Mục 5 này như sau:
a. Xử phạt tù từ mười lăm năm (đối với tội nhận hối lộ) hoặc từ mười ba năm (đối với tội
đưa hối lộ) đến dưới hai mươi năm nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng
đến dưới tám trăm triệu đồng (trường hợp này phải có ít nhất hai tình tiết
giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 BLHS);
b. Xử phạt hai mươi năm tù nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng đến
dưới hai tỷ đồng;
c. Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ hai tỷ đồng trở lên.
5.3. Trong trường hợp có nhiều tình tiết tăng nặng mà không có tình tiết giảm
nhẹ hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn, đồng thời đánh giá tính chất
tăng nặng và tính chất giảm nhẹ xét thấy cần tăng nặng trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội, thì có thể xử phạt người phạm tội mức án nặng hơn mức
án được hướng dẫn tại tiểu mục 5.1 Mục 5 này như sau:
a. Xử phạt tù chung thân nếu của hối lộ có giá trị từ ba trăm triệu đồng đến dưới
tám trăm triệu đồng;
b. Xử phạt tử hình nếu của hối lộ có giá trị từ tám trăm triệu đồng trở lên.
5.4. Trong trường hợp theo hướng dẫn tại các tiểu mục 5.1 và 5.3 Mục 5 này thì người
phạm tội nhận hối lộ phải bị xử phạt tử hình, nhưng người phạm tội nhận hối lộ đã
nộp lại một phần đáng kể giá trị của hối lộ (hoặc người thân thích, ruột thịt...
của người phạm tội đã nộp thay cho người phạm tội), thì có thể không xử phạt
tử hình người phạm tội và tuỳ vào giá trị của hối lộ nộp lại mà có
thể xử phạt người phạm tội tù chung thân hoặc tù có thời hạn.
Được coi là đã nộp lại một phần đáng kể giá trị của hối lộ nếu:
a. Giá trị của hối lộ đã nộp lại phải được ít nhất một phần hai giá trị của
hối lộ đã nhận;
b. Giá trị của hối lộ đã nộp lại phải được từ một phần ba đến dưới một phần hai giá
trị của hối lộ đã nhận, nếu có căn cứ chứng minh rằng người phạm tội (hoặc người thân
thích, ruột thịt... của người phạm tôi) đã thực hiện mọi biện pháp để nộp lại
giá trị của hối lộ đã nhận (đã bán hết nhà ở, tài sản có giá
trị; cố gắng vay, mượn... đến mức tối đa).
5.5. Trong trường hợp theo hướng dẫn tại các tiểu mục 5.1 và 5.3 Mục 5 này thì người
phạm tội đưa hối lộ phải bị xử phạt tử hình, nhưng người đưa hối lộ bị ép buộc hoặc
không bị ép buộc mà chủ động khai báo trước khi bị phát giác thì được
xử lý theo quy định tại khoản 6 Điều 289 BLHS.
6. Cần chú ý là trường hợp được hướng dẫn tại Mục 2 Nghị quyết này là trường
hợp không gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; các trường hợp được hướng dẫn tại
các mục 4 và 5 Nghị quyết này là các trường hợp không gây hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng khác. Trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng (đối với
tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản) hoặc trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng khác (đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ, tội đưa hối lộ) thì phân biệt
như sau:
6.1. Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị của hối lộ thuộc một trong các
trường hợp được hướng dẫn tại các mục 2, 4 và 5 Nghị quyết này, thì phải áp
dụng cả hai điểm a và b khoản 4 Điều luật tương ứng. Để xử phạt người phạm tội mức án
tương xứng với hành vi phạm tội và hậu quả, thì ngoài việc thực hiện theo hướng
dẫn tại các mục 2, 4 và 5 Nghị quyết này cần xem xét đến hậu quả đặc biệt nghiêm
trọng do tội phạm gây ra.
6.2. Nếu giá trị tài sản bị chiếm đoạt, giá trị của hối lộ dưới mức tối thiểu được
hướng dẫn tại các mục 2, 4 và 5 Nghị quyết này thì chỉ áp dụng điểm b khoản
4 Điều luật tương ứng và xử phạt người phạm tội mức án tương xứng với hậu quả đặc
biệt nghiêm trọng do tội phạm gây ra.
7. Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao thông qua ngày 15 tháng 3 năm 2001 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày
10 tháng 5 năm 2001.
Các hướng dẫn trong Nghị quyết này được áp dụng khi xét xử sơ thẩm, xét xử
phúc thẩm, xét xử giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với người thực hiện hành
vi phạm tội trước ngày Nghị quyết này có hiệu lực.
Đối với các trường hợp mà người phạm tội đã bị kết án đúng theo các
văn bản hướng dẫn trước đây và bản án đã có hiệu lực pháp luật thì
không căn cứ vào các hướng dẫn trong Nghị quyết này để kháng nghị theo trình
tự giám đốc thẩm, tái thẩm./. | ||||||||||||||||||||||||||||||||
|